Tử Cấm Thành
hoàng thành ở tại Bắc Kinh, Trung Quốc, là cung đình của nhà Minh và nhà Thanh From Wikipedia, the free encyclopedia
hoàng thành ở tại Bắc Kinh, Trung Quốc, là cung đình của nhà Minh và nhà Thanh From Wikipedia, the free encyclopedia
Tử Cấm Thành (tiếng Trung: 紫禁城; bính âm: Zǐjìnchéng) là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung điện lớn nhất thế giới, nhưng tại Trung Quốc, vẫn có các công trình hoàng gia khác vượt xa Tử Cấm Thành về quy mô, cụ thể là Trung Nam Hải rộng 6,1 km2 (1.500 mẫu Anh) nằm ngay phía tây Tử Cấm Thành, Di Hòa Viên rộng 2,9 km² ở quận Hải Điến, Bắc Kinh và Tị Thử Sơn Trang rộng 5,6 km2 (1.400 mẫu Anh) ở Thừa Đức, Hà Bắc. Tử Cấm Thành nằm ở trung tâm Hoàng Thành Bắc Kinh, còn Hoàng Thành thì được xây dựng xung quanh khu phức hợp cung điện. Bao bọc Tử Cấm Thành là nhiều khu vườn và đền đài hoàng gia sang trọng. Trong đó có Công viên Trung Sơn rộng 54 mẫu, Đền thờ Tiên đế, Công viên Bắc Hải rộng 171 mẫu và Công viên Cảnh Sơn rộng 57 mẫu.
Thành lập | 1925 |
---|---|
Vị trí | Số 4, đường Cảnh Sơn, Đông Thành, Bắc Kinh, Trung Quốc |
Tọa độ | 39,915987°B 116,397925°Đ |
Kiểu | Bảo tàng nghệ thuật, Cung điện hoàng gia, Di tích lịch sử |
Lượng khách | 16,7 triệu[1] |
Phụ trách | Vương Húc Đông |
Diện tích | 72 ha |
Xây dựng | 1406–1420 |
Kiến trúc sư | Khoái Tường |
Phong cách kiến trúc | Kiến trúc Trung Quốc |
Website | en www |
Một phần của | Hoàng cung của các triều đại Minh, Thanh ở Bắc Kinh và Thẩm Dương |
Tiêu chuẩn | Văn hóa: I, II, III, IV |
Tham khảo | 439-001 |
Công nhận | 1987 (Kỳ họp 11) |
Tử Cấm Thành | |||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tiếng Trung | 紫禁城 | ||||||||||||||||||||||
Nghĩa đen | "Tòa thành cấm màu tím" | ||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||
Tên tiếng Mãn | |||||||||||||||||||||||
Bảng chữ cái tiếng Mãn | ᡩᠠᠪᡴᡡᡵᡳ ᡩᠣᡵᡤᡳ ᡥᠣᡨᠣᠨ | ||||||||||||||||||||||
Chuyển tự | dabkūri dorgi hoton 'Nội thành cũ' |
Ngày nay, Tử Cấm Thành bao gồm Bảo tàng Cố cung, từng là hoàng cung và nơi cư trú mùa đông của các Hoàng đế Trung Hoa từ thời nhà Minh (bắt đầu từ Vĩnh Lạc Đế) tới cuối thời nhà Thanh, từ năm 1420 đến năm 1924. Đây vừa là nhà của các Hoàng đế cùng gia đình, vừa là trung tâm nghi lễ và chính trị của chính phủ Trung Quốc trong suốt 500 năm.
Được xây dựng từ năm 1406 đến năm 1420, Tử Cấm Thành gồm 980 tòa nhà,[2] được cho là có 9.999 phòng và chiếm diện tích 72 ha (hơn 180 mẫu).[3][4] Cung điện minh chứng cho sự xa hoa của nơi mà các Hoàng đế Trung Hoa từng sinh sống, đồng thời thể hiện rõ nét kiến trúc cung đình truyền thống Trung Quốc,[5] ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa, kiến trúc ở Đông Á cũng như nhiều nơi khác. Không những được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1987,[5] Tử Cấm Thành còn được tổ chức này xếp vào danh sách các công trình kiến trúc cổ bằng gỗ được bảo tồn lớn nhất thế giới.
Từ năm 1925, Tử Cấm Thành thuộc quyền quản lý của Bảo tàng Cố Cung, nơi có một bộ sưu tập phong phú các tác phẩm nghệ thuật, hiện vật, được tập hợp dựa trên các bộ sưu tập thời Minh, Thanh. Một phần bộ sưu tập trước đây của Bảo tàng Cố cung hiện đang nằm trong Bảo tàng Cố cung Quốc gia ở Đài Bắc. Cả hai bảo tàng kể trên đều xuất thân từ cùng một tổ chức nhưng đã bị phân tách sau cuộc Nội chiến Trung Quốc. Từ năm 2012, Tử Cấm Thành đón trung bình 14 triệu du khách mỗi năm[6] và đón hơn 19 triệu du khách riêng trong năm 2019,[7] có thể nói rằng đây là bảo tàng bận rộn để đón khách du lịch nhất thế giới.[8] Với giá trị ước tính hơn 70 tỷ đô la Mỹ, Tử Cấm Thành trở thành cung điện và phần bất động sản đắt đỏ nhất trên toàn thế giới.[9]
Trong tiếng Anh, tên gọi thông dụng của khu phức hợp cung điện này là "Forbidden City" được dịch từ tên gốc Tử Cấm Thành (tiếng Trung: 紫禁城; bính âm: Zǐjìnchéng; nghĩa đen 'Tòa thành cấm màu tím'). Tử Cấm Thành chính thức xuất hiện lần đầu vào năm 1576.[10] Một cái tên tiếng Anh khác có nguồn gốc tương tự là "Forbidden Palace".[11]
"Tử Cấm Thành" mang nhiều tầng ý nghĩa. Tử, tức "màu tím", tượng trưng cho sao Bắc Cực — thường được người Trung Quốc xưa gọi là sao Tử Vi — được xem như nơi ở thiên giới của Ngọc Hoàng Thượng Đế.[12][13] Vùng thiên thể xung quanh, Tử Vi Viên (tiếng Trung: 紫微垣; bính âm: Zǐwēiyuán), là địa hạt của Ngọc Hoàng và gia đình. Tử Cấm Thành, nhà của Hoàng đế trên mặt đất, sẽ là đối trọng với Tử Vi Viên nơi trần thế.[14] Cấm, hay "cấm đoán", ám chỉ thực tế rằng không có ai có thể ra vào cung điện nếu không được hoàng đế cho phép. Thành nghĩa là thành phố. Ngày nay, trong tiếng Trung, Tử Cấm Thành thường được biết đến với danh xưng Cố cung (故宫), nghĩa là "Cung điện cũ".[a][15] Bảo tàng nằm trong Tử Cấm Thành thì được đặt tên là "Bảo tàng Cố cung" (tiếng Trung: 故宫博物院; bính âm: Gùgōng Bówùyùan).[16] Vào thời nhà Minh và nhà Thanh, người ta còn gọi Tử Cấm Thành là Đại Nội (大内) hoặc "cung thành" (宫城).[17]
Vào đầu triều đại nhà Minh, kinh đô được đặt tại phủ Ứng Thiên, Nam Kinh. Niên hiệu Kiến Văn, Yến Vương Chu Đệ từ Bắc Bình phát động Chiến dịch Tĩnh Nan. Năm 1403, Chu Đệ lật đổ cháu mình là Minh Huệ Đế và trở thành Hoàng đế tiếp theo của nhà Minh, lấy niên hiệu là Vĩnh Lạc. Ông quyết định dời đô từ Nam Kinh tới Bắc Bình (đã được đổi tên thành Bắc Kinh sau khi ông lên ngôi), và cho khởi công Tử Cấm Thành vào tháng 7 năm 1406.[18] Chủ trì xây dựng công trình gồm Trần Khuê, Công bộ Thị lang Ngô Trung, Hình bộ Thị lang Trương Tư Cung, kiến trúc sư Thái Tín. Những nghệ nhân nổi tiếng như thợ điêu khắc đá Lục Tường, thợ nề Dương Thanh và nhiều nghệ nhân khác đã đến Bắc Kinh vào tháng 5 năm đó.[19]
Quá trình xây dựng Tử Cấm Thành mất 14 năm, huy động tới hơn một triệu nhân công.[20] Vật liệu được sử dụng bao gồm toàn bộ gỗ quý trinh nam (tiếng Trung: 楠木; bính âm: nánmù) từ các khu rừng phía tây nam Trung Quốc và đá cẩm thạch lớn từ các mỏ đá gần Bắc Kinh.[21] Các đại điện lớn được lát nền bằng "gạch vàng" (tiếng Trung: 金磚; bính âm: jīnzhuān), loại gạch nung đặc biệt của Tô Châu.[20]
Tháng 12 năm 1420, Tử Cấm Thành cơ bản hoàn thành. Đến tháng 5 năm sau, một trận sét đánh đã làm cho ba điện lớn ở ngoại triều bị thiêu cháy, đến năm 1440 thời Minh Anh Tông mới xây dựng lại ba tiền điện và điện Càn Thanh. Năm 1557, Tử Cấm Thành gặp hỏa hoạn, cả 3 tiền điện và Phụng Thiên Môn, Văn Vũ Lâu, Ngọ Môn đều bị thiêu rụi, 4 năm sau mới được xây dựng lại hoàn toàn. Năm 1597, Tử Cấm Thành lại cháy lớn, đốt cháy 3 điện phía trước, 3 cung phía sau. Việc khôi phục công trình chỉ hoàn thành cho đến năm 1627.[19]
Từ năm 1420 đến năm 1644, Tử Cấm Thành là trung tâm chính trị của triều đại nhà Minh. Tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành mang theo quân Đại Thuận tiến vào chiếm Bắc Kinh, lật đổ nhà Minh.[22] Khi tướng lĩnh nhà Minh trấn giữ Sơn Hải quan là Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh ập vào kinh thành, Lý Tự Thành đã phóng hỏa đốt Tử Cấm Thành[23] trước khi rút lui về Thiểm Tây, chỉ có điện Vũ Anh, điện Kiến Cực, điện Anh Hoa, điện Nam Huân, xung quanh Giác Lâu và Hoàng Cực Môn không bị cháy.[24][25][26]
Tháng 10 cùng năm, nhà Thanh đã làm chủ hoàn toàn miền bắc Trung Quốc, và tổ chức một buổi lễ lên ngôi cho Hoàng đế trẻ tuổi Thuận Trị ngay tại Tử Cấm Thành để tuyên bố việc ông chính thức trở thành Hoàng đế và nhà Thanh chính thức làm chủ Trung Quốc.[27] Triều đình nhà Thanh đã đổi tên một số cung điện chính để nhấn mạnh sự "hòa hợp" hơn là "uy quyền".[28] Họ cho đặt bảng tên song ngữ (tiếng Hán cùng tiếng Mãn),[29] cũng như đưa các yếu tố Shaman giáo vào trong cung điện.[30] Thuận Trị Đế chọn điện Kiến Cực không bị cháy để làm tẩm cung và đổi tên thành "cung Vị Dục", Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn chọn điện Vũ Anh làm nơi bàn bạc chính sự.
Từ năm 1645 đến năm 1660, nhà Thanh liên tiếp cho xây dựng lại các công trình đã bị phá hủy như Ngọ Môn, Thiên An Môn, khu vực ba điện phía trước, từ cung Vị Dục khôi phục làm điện Kiến Cực, đổi tên thành điện Bảo Hòa; đồng thời sửa sang lại Càn Thanh Cung, Giao Thái Điện và Khôn Ninh Cung trong Nội đình, Chung Túy Cung, Thừa Càn Cung và Cảnh Nhân Cung ở đường phía đông, Trữ Tú Cung, Dực Khôn Cung và Vĩnh Thọ Cung ở phía tây, cùng với Từ Ninh Cung, Phụng Tiên Điện. Đến năm 1667 thì xây dựng lại Đoan Môn.[24]
Bắt đầu từ năm 1683, Khang Hi Đế bắt đầu cho xây dựng lại toàn bộ những kiến trúc đã bị phá hủy của Tử Cấm Thành, đến năm 1695 thì cơ bản hoàn thành. Trong khoảng thời gian này, nhà Thanh đã cho xây Văn Hoa Điện và Truyền Tâm Điện dùng cho lễ Kinh Diên, Hàm An Cung và Ninh Thọ Cung làm nơi ở của Thái hậu, các cung điện Cảnh Dương Cung, Vĩnh Hòa Cung, Duyên Kỳ Cung, Hàm Phúc Cung, Trường Xuân Cung và Khải Tường Cung làm nơi ở cho phi tần, những tổ hợp cung điện như Đông ngũ sở, Tây ngũ sở cùng với Hiệt Phương Điện, Dục Khánh Cung dùng làm nơi ở cho các hoàng tử, ngoài ra còn có Thượng tứ viện, Tạo biện xứ, Nội vụ phủ,... đồng thời trùng tu Thái Hòa Điện, Càn Thanh Cung, Khôn Ninh Cung và Phụng Tiên Điện.[24]
Sau khi Càn Long Đế lên ngôi vào năm 1735, Tử Cấm Thành được xây dựng thêm và sửa chữa trên quy mô lớn trong suốt 60 năm ông tại vị. Khoảng những năm 1740–1742, Càn Long đổi tên Tây nhị sở (nơi ông đã ở trước khi lên ngôi) thành Trọng Hoa Cung, đồng thời cho xây dựng thêm Kiến Phúc Cung, Thọ An Cung và Vũ Hoa Các ở phía tây. Từ năm 1772 đến năm 1777, triều đình nhà Thanh bỏ ra hơn 130 vạn lượng để sửa đổi Hoàng Cực Điện, Ninh Thọ Cung, Dưỡng Tâm Điện, Nhạc Thọ Đường, quần thể kiến trúc Hoa viên Càn Long – nơi ở chủ yếu của Càn Long sau khi trở thành Thái thượng hoàng.[24]
Năm 1860, trong Chiến tranh nha phiến lần hai, liên quân Anh–Pháp giành quyền kiểm soát và chiếm đóng Tử Cấm Thành cho đến khi kết thúc cuộc chiến.[31] Năm 1886, một đám cháy đã bùng phát từ phòng của lính canh cổng Thái Hòa. Do đồ dùng chữa cháy không hoàn thiện, ngọn lửa đã kéo dài trong hai ngày khiến cổng Thần Vũ, Thái Hòa và điện Chiêu Đức bị thiêu rụi. Thiệt hại phải đến năm 1892 mới khôi phục lại. Năm 1900, giữa phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, Từ Hi Thái hậu chạy trốn khỏi Tử Cấm Thành, để nơi đây rơi vào tay các cường quốc cho đến năm 1901.[31]
Từng là nhà của 24 vị Hoàng đế – 14 Hoàng đế nhà Minh và 10 Hoàng đế nhà Thanh, Tử Cấm Thành không còn là trung tâm chính trị của Trung Quốc khi Hoàng đế Trung Hoa cuối cùng là Phổ Nghi thoái vị vào năm 1912. Nhờ một thỏa thuận với chính phủ mới của Trung Hoa Dân Quốc, Phổ Nghi vẫn được ở lại Nội Đình mãi đến khi ông bị trục xuất sau một cuộc đảo chính vào năm 1924,[32] trong khi khu Ngoại Triều thì được sử dụng cho mục đích công cộng.[33] Bảo tàng Cố cung được thành lập tại Tử Cấm Thành vào năm 1925.[34] Năm 1933, các bảo vật quốc gia trong Tử Cấm Thành buộc phải di dời khi quân đội Nhật Bản xâm lược Trung Quốc.[35] Một phần bộ sưu tập được đưa trở lại Tử Cấm Thành vào cuối Thế chiến 2,[36] nhưng phần còn lại thì bị sơ tán đến Đài Loan theo lệnh của Tưởng Giới Thạch, khi Quốc Dân Đảng của ông thua Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc Nội chiến Trung Quốc. Bộ sưu tập lưu lạc, tuy nhỏ nhưng có chất lượng cao, được lưu giữ đến khi Bảo tàng Cố cung Quốc gia ở Đài Bắc đem ra trưng bày vào năm 1965, và trở thành trọng tâm của bảo tàng này.[37]
Không lâu sau khi Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc chiếm được Bắc Kinh vào năm 1949, Viện bảo tàng Cố Cung được thành lập. Từ năm 1950 đến 1960, lần lượt có nhiều người đề nghị việc xây sửa lại Cố Cung, sau lại vì nhiều nguyên nhân mà gác lại. Năm 1961, thông qua sự phê chuẩn của Quốc vụ viện, Cố Cung Bắc Kim trở thành đơn vị bảo vệ văn vật trọng điểm đầu tiên của cả nước. Đến tháng 6 năm 1966, trong sự bùng nổ của Cách mạng Văn hoá, đội Quân Tuyên[b] tiến vào chiếm giữ Bảo tàng Cố Cung. Đến ngày 16 tháng 8, ngoài cuộc triển lãm "Thu Tô viện" ở Phụng Tiên Điện, còn lại tất cả các cung điện khác đều đóng cửa. Nhưng bên ngoài Thần Vũ Môn bị Hồng vệ binh cho người dán đầy những tờ giấy với nội dung "Hỏa thiêu Tử Cấm Thành", "Đập nát Cố Cung". Lúc này, hàng loạt "phương án chỉnh đốn và cải cách" được đưa ra, các kiến trúc như Thuận Trinh Môn, Thiên Nhất Môn, Văn Hoa Điện, bức hoành trên công của Càn Long hoa viên đều bị phá hủy, bảo tọa trong Trung Hòa Điện bị hủy.[38] Nhưng những hạn mục khác của phương án này chưa kịp thực thi thì xuất hiện "phê phán đường lối phản động của giai cấp tư sản", đội Quân Tuyên trở thành đối tượng bị phê phán và chỉ trích, phải rút khỏi Tử Cấm Thành vào tháng 10 năm 1966, "phương án chỉnh đốn và cải cách" liền chấm dứt. Ngoài ra, Thủ tướng Chu Ân Lai cũng đã cử một tiểu đoàn quân đội đến bảo vệ Tử Cấm Thành để nơi đây không bị tàn phá thêm nữa.[39]
Nhờ vị trí quan trọng của trong sự phát triển kiến trúc và văn hóa Trung Hoa, Tử Cấm Thành được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1987 với vai trò "Hoàng cung các triều đại Minh và Thanh".[40] Bảo tàng Cố cung, đơn vị quản lý Tử Cấm Thành, đang thực hiện một dự án trùng tu kéo dài 16 năm, với tham vọng phục hồi tất các tòa nhà trong Tử Cấm Thành về trạng thái như trước năm 1912.[41]
Ngày 25 tháng 1 năm 2020, Viện bảo tàng Cố Cung đóng cửa vì Đại dịch COVID–19;[42] đây cũng là lần đầu tiên nơi này đóng cửa vì dịch bệnh trong suốt 40 năm qua.[43]
A. Ngọ Môn B. Thần Vũ Môn C. Tây Hoa Môn D. Đông Hoa Môn E. Các tòa tháp ở góc F. Thái Hòa Môn G. Thái Hòa Điện |
H. Võ Anh Điện J. Văn Hoa Điện K. Nam Tam Sở L. Càn Thanh Cung M. Ngự Hoa Viên N. Dưỡng Tâm Điện O. Ninh Thọ Cung |
Tử Cấm Thành được quy hoạch theo một hình chữ nhật, có kích thước 961 mét (3.153 ft) từ bắc xuống nam và 753 mét (2.470 ft) từ đông sang tây.[44][45] Thời kỳ đầu nhà Minh, nơi này có hơn 1630 tòa cung điện, đến thời Càn Long của nhà Thanh thì phát triển lên hơn 1800 tòa. Bắt đầu từ thời Khang Hi cho đến những năm đầu Dân Quốc, gia tộc nhà họ Lôi đời đời chịu trách nhiệm đo đạc, vẽ lại Tử Cấm Thành. Một giai thoại truyền miệng phổ biến cho rằng Tử Cấm Thành có đúng 9.999 phòng bao gồm cả các phòng đợi,[46] nhưng chưa từng được chứng minh qua các bằng chứng khảo sát.[47] Thực tế, theo các chuyên gia đo đạc vào năm 1973, Cố Cung hiện nay còn sót lại hơn 90 viện lớn nhỏ, 980 tòa nhà với 8.886 gian phòng.[c][48] Tử Cấm Thành được thiết kế để trở thành trung tâm của thành cổ Bắc Kinh. Nó nằm giữa một khu vực rộng lớn, có tường vây quanh, gọi là Hoàng Thành. Bên ngoài Hoàng Thành là trong Thành Nội; về phía nam là Thành Ngoại.[49]
Đến nay, Tử Cấm Thành vẫn giữ vai trò quan trọng trong sơ đồ hành chính Bắc Kinh và trục trung tâm nam–bắc của khu phức hợp cung điện vẫn là trục trung tâm của thành phố. Trục này kéo dài về phía nam qua cổng Thiên An Môn vào quảng trường Thiên An Môn – trung tâm nghi lễ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – rồi đến Vĩnh Định Môn, lại kéo dài về phía bắc qua đồi Cảnh Sơn, Cổ Lâu và Chung Lâu.[50] Nó không được căn chỉnh chính xác theo hướng bắc–nam, nhưng cũng chỉ lệch khoảng hơn hai độ. Các nhà nghiên cứu ngày nay tin rằng trục kiến trúc này được thiết kế vào thời nhà Nguyên, sao cho thật thẳng hàng với Xanadu, một kinh đô khác của đế chế Mông Cổ.[51]
Tử Cấm Thành được bao quanh bởi bốn mặt tường thành cao 7,9 mét (26 ft)[28] và một con sông bảo vệ rộng 52 m (171 ft), sâu 6 m (20 ft).[52] Các bức tường khác rộng 8,62 m (28,3 ft) ở chân, giảm dần xuống còn 6,66 m (21,9 ft) ở đỉnh. Chúng vừa là tường phòng thủ vừa là tường chắn cho cung điện, được tạo thành từ một lõi đất nện, phủ bề mặt cả hai phía bằng ba lớp gạch nung đặc biệt, với các kẽ được lấp đầy vữa.[53] Ở bốn góc tường thành bao là bốn ngọn tháp (E), có phần mái phức tạp với 72 đường gờ, mô phỏng Đằng Vương Các và Hoàng Hạc Lâu như trong các bức tranh thời nhà Tống.[53] Bốn ngọn tháp mang nhiều nét văn hóa dân gian, và là thành phần mà thường dân bên ngoài các bức tường dễ dàng nhìn thấy nhất. Theo một truyền thuyết, đầu thời nhà Thanh, các nghệ nhân đã không thể lắp ráp lại một ngọn tháp vừa tháo dỡ để tu bổ, cho tới khi được thợ mộc Lỗ Ban giúp sức.[28]
Cố Cung có bốn cổng thành chính, mỗi mặt tường thành đều có một cổng. Đầu phía nam là Ngọ Môn (A).[d] Cuối phía bắc là Thần Vũ Môn (B), đối diện với Công viên Cảnh Sơn. Hai cổng ở phía đông và tây lần lượt là Đông Hoa Môn và Tây Hoa Môn. Tất cả các cổng trong Tử Cấm Thành đều được trang trí với chín hàng, chín cột núm đinh bằng vàng, ngoại trừ Đông Hoa Môn là chỉ có tám hàng.[54]
Thời Minh, các cổng thành áp dụng chế "truyền chuông canh tuần" cổng thành vào ban đêm. Ở khu vực giữa tường thành và sông hộ thành, có hơn 40 trạm dịch canh phòng được xây dựng, mỗi trạm dịch có 10 người. Có tất cả 41 chuông đồng được đặt tại Khuyết Hữu Môn. Mỗi đêm, bắt đầu từ Khuyết Hữu Môn, cứ cách một đoạn thời gian thì truyền đi một chuông đồng, đến cuối cùng của buổi canh tuần thì tất cả chuông đồng sẽ về lại Khuyết Hữu Môn.[19]
Đến thời Thanh, vào ban đêm, tất cả bốn cổng thành đều sẽ được khóa lại, chìa khóa sẽ do Hộ quân giáo đưa đến cho Ti thược trưởng[e] của Cảnh Vận Môn bảo quản, ngày hôm sau sẽ đưa trở về. Chế độ "truyền chuông đồng" cũng được thay thế bằng "truyền thẻ tre", mỗi đêm sẽ có tám thẻ tre đỏ được truyền đi. Nhiệm vụ canh gác cửa thành đều sẽ được giao cho những người Mãn thuộc Bát kỳ trong Hộ quân đảm đương. Đến thời Càn Long, ở mỗi cổng được đặt thêm hai vị trí "Chương kinh".[f] Sau khởi nghĩa Thiên Lý Giáo vào năm 1813, bốn cổng thành lại được tăng thêm 400 quân bảo vệ từ Hỏa khí doanh, và bất cứ ai tự ý xông vào thành đều bị xử phạt nặng.
Theo truyền thống, Tử Cấm Thành được chia làm hai bộ phận: Ngoại Đình (外廷) hay Tiền Triều (前朝), bao quát khu vực trung tâm phía nam, sử dụng cho các hoạt động nghi lễ; và Nội Đình (内廷) hay Hậu Cung (后宫), bao quát khu vực phía bắc và hai trục đông–tây, là nơi ở của Hoàng đế và gia đình, cũng là nơi tổ chức các hoạt động triều chính thường nhật. Nhìn chung, Tử Cấm Thành có ba trục thẳng. Các công trình quan trọng nhất nằm trên trục trung tâm bắc–nam.[54]
Bước vào Ngọ Môn là một quảng trưởng rộng lớn với năm cây cầu bắc qua dòng Kim Thủy.[57] Bên ngoài quảng trường là Thái Hòa Môn (F). Thái Hòa Môn là cửa cung lớn nhất bên trong Tử Cấm Thành, cũng là cổng chính của phần Ngoại Đình. Thái Hòa Môn rộng chín gian, sâu ba gian, thời Minh gọi là "Phụng Thiên Môn", sau lại đổi tên thành "Hoàng Cực Môn", đến thời Thanh thì gọi "Thái Hòa Môn". Thời Minh quy định, mỗi buổi sáng các quan viên đều phải đến Phụng Thiên Môn dự triều sớm, Hoàng đế cũng đích thân đến đây nhận triều bái và xử lý chính vụ, thường được gọi là "ngự môn thính chính" (御门听政). Đến thời Thanh, Hoàng đế cũng từng nhận triều bái và ban thưởng yến tiệc tại Thái Hòa Môn, nhưng việc "ngự môn thính chính" được dời vào Càn Thanh Môn.[58]
Hai bên hành lang dài nối từ Ngọ Môn đến Thái Hòa Môn, có hai cổng nhỏ hơn đối xứng nhau là Hi Hòa Môn (熙和門) và Hiệp Hòa Môn (协和門). Nằm ngay hai bên Thái Hòa Môn là Trinh Độ Môn (贞度門) và Chiêu Đức Môn (昭德門).
Qua khỏi Thái Hòa Môn là một quảng trường rộng khác. Một sân thượng tam cấp làm bằng đá cẩm thạch trắng, được xây dựng trên quảng trường. Ba đại điện nằm trên sân thượng này là tâm điểm của quần thể cung điện. Từ phía nam, chúng lần lượt là Thái Hòa Điện (太和殿), Trung Hòa Điện (中和殿) và Bảo Hòa Điện (保和殿).[59] Ba điện này cùng với Văn Hoa Điện ở phía đông và Vũ Anh Điện ở phía tây hợp lại được xưng là "Ngoại triều".
Cả ba đại điện đều có ngai vàng, cái lớn nhất được đặt ở Thái Hòa Điện.[65] Các đoạn dốc chính giữa, dẫn lên các sân thượng từ cả hai phía bắc và nam, là các đoạn dốc nghi lễ, một phần của con đường đế vương, đặc trưng bởi các bức phù điêu tinh xảo mang tính biểu tượng. Đoạn dốc đầu phía bắc, sau Bảo Hòa Điện, được chạm khắc từ một phiến đá dài 16,57 mét (54,4 ft), rộng 3,07 mét (10,1 ft) và dày 1,7 mét (5,6 ft). Nó nặng khoảng 200 tấn và là tác phẩm chạm khắc lớn nhất Trung Quốc.[20] Đoạn dốc đầu phía nam, trước Thái Hòa Điện, thậm chí còn dài hơn, nhưng được làm từ hai phiến đá ghép lại – mối nối được giấu khéo léo bằng cách sử dụng các bức phù điêu chồng lên nhau, và chỉ bị phát hiện khi thời tiết làm nở rộng khe hở trong thế kỷ 20.[66] Người ta có thể đã vận chuyển các phiến đá bằng xe trượt băng, trên một đường băng được làm bằng nước lấy trong các giếng lưu động dọc đường đi.[67]
Trong khu vực của Tiền Tam Điện còn có các kiến trúc (theo thứ tự từ ngoài vào trong):
Về phía đông bắc Ngoại Đình là Nam Tam Sở (南三所) (K), tên ban đầu là Hiệt Phương Điện (撷芳殿).[97] Ở triều Minh, nơi này gồm có Đoan Kính Điện (端敬殿) và Đoan Bản Cung (端本宫) là nơi ở của Hoàng thái tử.[57] Thái tử Dận Nhưng của Khang Hi cũng từng ở đây. Năm Càn Long thứ 11 (1746), xây dựng ba sở ở Hiệt Phương Điện là Tây sở, Trung sở và Đông sở làm nơi ở của các Hoàng tử, vì nơi này ở phía nam Ninh Thọ Cung nên có tên Nam Tam Sở, còn được gọi là A–ca Sở (阿哥所) hoặc Sở Nhi (所儿). Từ sau đời Gia Khánh, thường gọi nơi này tên cũ là Hiệt Phương Điện.[98]
Nội Đình được ngăn cách với Ngoại Đình bằng một cái sân hình thuôn, nằm trực giao với trục chính của Tử Cấm Thành. Đây là nơi sinh hoạt của Hoàng đế và gia đình. Thời nhà Thanh, Hoàng đế hầu như chỉ sống và làm việc ở Nội Đình, còn Ngoại Đình thì được sử dụng cho các hoạt động nghi lễ.[99]
Bước qua khỏi Bảo Hòa Điện là một quảng trường hình chữ nhật, phía tây là Long Tông Môn, phía đông là Cảnh Vận Môn. Quảng trường này chính là ranh giới giữa Ngoại Triều và Nội Đình, cũng là nơi từng dùng để "ngự môn thính chính" vào đầu thời Thanh.
Càn Thanh Môn (乾清門) là cổng chính của Càn Thanh Cung, đồng thời cũng là cổng chính của khu vực Nội Đình. Nơi này được xây dựng vào năm 1420 dưới thời Minh Thành Tổ, đến năm 1655 dưới thời Thuận Trị thì được trùng tu. Càn Thanh Môn rộng năm gian, sâu ba gian, cao ước chừng 16 mét (52 ft), nằm trên một bậc thềm bằng cẩm thạch trắng cao 1,5 mét (4,9 ft), xung quanh được bao bởi lan can đá được điêu khắc hoa văn. Phía trước Càn Thanh Môn có ba lối đi lên bậc thềm, chính giữa là con đường đá chỉ dành cho Hoàng đế, hai bên là đôi sư tử bằng đồng mạ vàng. Hai bên Càn Thanh Môn là bức bình phong lưu ly hình "八", cao 8 mét (26 ft), dài 9,7 mét (32 ft). Chính giữa tường và các khúc ngoặt được trang trí bằng hoa tráng men. Nằm về phía đông của Càn Thanh Môn là Nội Tả Môn (内左門) và phòng trực ban của Cửu Khanh, phía tây là Nội Hữu Môn (内右門) và phòng trực ban của Quân cơ xứ.[100]
Cảnh Vận Môn (景运門) nằm ở phía đông của Quảng trường Càn Thanh Môn, là lối đi quan trọng nối Ngoại Triều và Nội Đình ở trục đông. Bởi cả Cảnh Vận Môn và Long Tông Môn đều là lối đi vào quảng trường phía trước Càn Thanh Môn, có thể dễ dàng đi thông giữa ngoại triều và nội đình nên còn được gọi là "Cấm Môn". Tất cả các vương công đại thần đi theo Hoàng đế đều phải dừng bên ngoài Cảnh Vận Môn 20 bước chân, không được phép tiến vào.[101]
Long Tông Môn (隆宗門) nằm ở phía tây của Quảng trường Càn Thanh Môn, là lối đi quan trọng nối Ngoại Triều và Nội Đình ở trục đông, đối xứng với Cảnh Vận Môn qua trục trung tâm, đồng thời hình dáng và quy chế đều tương tự Cảnh Vận Môn. Tất cả các vương công đại thần nếu không có chỉ tuyên triệu thì không được phép tự tiện tiến vào Long Tong Môn. Bởi vì các Hoàng đế nhà Thanh thường chuyện cuộc sống ở các trang viên Hoàng gia nên các đời Hoàng đế như Khang Hi, Ung Chính, Đạo Quang đều mất bên ngoài Tử Cấm Thành, vì vậy quan tài đều được nghênh đón vào Nội Đình qua Long Tông Môn, lại tổ chức trai giới khóc tang ngay bên trong.[102]
Ở trung tâm của Nội Đình là một bộ ba cung điện (L). Từ phía nam, chúng lần lượt là: Càn Thanh Cung (乾清宮), Giao Thái Điện, Khôn Ninh Cung. Nhỏ hơn ba đại điện ở Ngoại Đình, ba cung điện trong Nội Đình là nơi ở chính thức của Hoàng đế và Hoàng hậu. Hoàng đế, đại diện cho Dương và Trời, sẽ ở Càn Thanh Cung (tương ứng với Quẻ Càn trong Kinh Dịch). Hoàng hậu, đại diện cho Âm và Đất, sẽ ở Khôn Ninh Cung (tương ứng với Quẻ Khôn). Giao Thái Điện nằm giữa hai cung, tượng trưng cho sự giao hòa âm dương.[103]
Càn Thanh Cung (乾清宫) là cung đầu tiên trong Hậu Tam Cung, rộng 9 gian, sâu 5 gian, được xây dựng trên nền đá cẩm thạch đơn cấp với hai lớp mái, nối với Càn Thanh Môn ở phía nam bằng một lối đi được tôn cao. Vào thời nhà Minh, đây là nơi ở của Hoàng đế, cũng là nơi Chu hoàng hậu của Minh Tư Tông, hoàng đế người Hán cuối cùng, bị ép treo cổ tự vẫn. Đến thời Thanh, nơi này tiếp tục trở thành nơi ở của Hoàng đế. Tuy nhiên, từ thời Ung Chính Đế, Hoàng đế chuyển đến sống tại Dưỡng Tâm Điện (N) phía tây, để tỏ lòng kính trọng với Khang Hi Đế.[28] Càn Thanh Cung trở thành nơi thiết triều của Hoàng đế.[104] Trên trần của Càn Thanh Cung cũng được thiết kế một tảo tỉnh hình rồng cuộn. Phía trên ngai vàng có treo một tấm bảng ghi "Chính Đại Quang Minh" (正大光明).[105] Chế độ "bí mật lập trữ" bắt đầu từ thời Ung Chính, chiếu thư chọn Trữ quân đều được đặt sau tấm biển này. Đây là một trong những cung điện quan trọng bậc nhất của phần Nội Đình, nhưng cũng là một trong những nơi bị phá hủy và trùng tu nhiều lần nhất, lần cuối cùng trùng tu là vào năm 1798 dưới thời Gia Khánh.[106] Càn Thanh Cung có hai nhĩ điện[h] lần lượt là:
Khôn Ninh Cung (坤寧宮) có hai lớp mái, rộng 9 gian và sâu 3 gian. Thời nhà Minh, đây là nơi ở của Hoàng hậu. Tới thời nhà Thanh, các nhà cai trị Mãn Thanh chuyển đổi phần lớn cung điện này, phục vụ các hoạt động thờ cúng Shaman giáo. Kể từ giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính, Hoàng hậu phải rời khỏi Khôn Ninh Cung. Tuy nhiên, có hai căn phòng ở Khôn Ninh Cung vẫn được giữ lại, dùng cho đêm tân hôn của Hoàng đế.[108] Ngay phía sau Khôn Ninh Cung chính là Khôn Ninh Môn (坤宁門), một trong những cổng nằm trên trục chính trung tâm của Tử Cấm Thành, nối Hậu Tam Cung với hoa viên phía sau.[109] Giao Thái Điện có dạng hình vuông có phần mái chóp, là nơi lưu giữ 25 hoàng ấn của triều nhà Thanh cũng như nhiều vật phẩm nghi lễ khác.[110]
Xung quanh Hậu Tam Cung được vây lại bởi một hành lang dài có mái che. Hành lang dài này thực chất là từng dãy nhà liên tiếp được thiết lập các cơ quan với nhiều chức năng khác nhau, trong đó có các kiến trúc chính:[111]
Phía sau Hậu Tam Cung là một khu vườn khá nhỏ, gọi là Ngự Hoa Viên (M). Tuy được thiết kế nhỏ gọn nhưng Ngự Hoa Viên có một số cảnh quan đặc biệt được bài trí rất công phu.[112] Nơi này được xây dựng từ thời Minh và là hoa viên cung đình chính của Tử Cấm Thành. Trong khu vực Ngự Hoa Viên có các kiến trúc chính:
Phía bắc khu vườn lần lượt là Thừa Quang Môn, Thuận Trinh Môn và Thần Vũ Môn:
Phía tây Nội Đình là Dưỡng Tâm Điện (N). Điện được xây dựng từ những năm Gia Tĩnh của triều Minh, từng là tẩm cung của Minh Thần Tông.[128] Đầu triều Thanh, Thuận Trị Đế đã qua đời tại đây. Tuy ban đầu chỉ là một cung điện nhỏ, nhưng Dưỡng Tâm Điện dần trở thành nơi sống và làm việc thực tế của các Hoàng đế từ thời Ung Chính. Trong những thập niên cuối của triều đại nhà Thanh, các hoàng hậu, bao gồm cả Từ Hi, đã tổ chức thiết triều ở phần phía đông của Dưỡng Tâm Điện. Nằm xung quanh Dưỡng Tâm Điện là Quân Cơ Xứ cùng các cơ quan chính phủ trọng yếu khác.[129]
Dưỡng Tâm Điện có cấu trúc hình "工" với tiền điện rộng 3 gian. Bảo tọa của Hoàng đế được đặt ở trung tâm của gian giữa, phía trên trên là tấm biển "Trung Chính Nhân Hòa" do đích thân Ung Chính viết. Phía đông của gian giữa chính là Đông Noãn các, là nơi Từ An và Từ Hi Thái hậu thùy liêm thính chánh. Riêng Tây Noãn các được chia làm nhiều phần nhỏ, có nơi giành cho Hoàng đế phê duyệt tấu chương, bàn việc cơ mật với đại thần, cũng có một nơi chuyên dụng để Càn Long đọc sách gọi là "Tam Hi Đường"; ngoài ra còn có một Phật đường nhỏ và "Mai Ổ" nổi tiếng – nơi Càn Long nghỉ ngơi sau khi trở thành Thái thượng hoàng.[130]
Hậu điện của Dưỡng Tâm Điện chính là tẩm cung của Hoàng đế, tổng cộng rộng 5 gian, gian nhỏ phía đông tây đều được thiết đặt giường ngủ, thuận tiện cho Hoàng đế nghỉ ngơi. Hai bên của hậu điện đều có những dãy phòng nghỉ, mỗi dãy rộng 5 gian. 5 gian phía đông chính là nơi Hoàng hậu ở tạm khi theo hầu Hoàng đế, 5 gian phía tây giành cho các phi tần. Trong giai đoạn Lưỡng cung Thái hậu thùy liêm cho Đồng Trị, Từ An Thái Hậu đã ở tại "Thể Thuận Đường" phía đông còn Từ Hi Thái hậu ở tại "Yến Hi Đường" phía tây. Xung quanh đều sắp xếp rất nhiều dãy phòng, thuận tiện cho các phi tần ở tạm khi theo hầu các vị Thái hậu.[130]
Từ tháng 12 năm 2015, Viện Bảo tàng Cố Cung bắt đầu khởi động dự án nghiên cứu bảo tồn Dưỡng Tâm Điện, quyết định đóng cửa nơi này, từ chối khách tham quan. Đến tháng 9 năm 2018 thì điện này bắt đầu được trùng tu.[131]
Phía đông bắc Nội Đình là Ninh Thọ Cung (寧壽宮) (O), một khu phức hợp được Càn Long Đế cho xây dựng trước khi thoái vị. Ninh Thọ Cung là một mô hình thu nhỏ của Tử Cấm Thành, cũng có "ngoại đình", "nội đình", hoa viên và đền đài. Lối vào Ninh Thọ Cung được trang trí bằng bức tường hình chín con rồng làm từ đá lát tráng men, gọi là là Cửu Long Bích (九龙壁).[132] Bảo tàng Cố cung và Quỹ Di tích toàn cầu đang hợp tác trùng tu toàn bộ Ninh Thọ Cung, trong một dự án dài hạn dự kiến hoàn thành vào năm 2017.[133]
Mỗi bên đông tây của Hậu Tam Cung ở Nội Đình là sáu cung điện nhỏ hơn, gọi là Đông Lục Cung và Tây Lục Cung. Đây nơi ở của hoàng hậu, phi tần và con cái của Hoàng Đế. Mười hai cung này được nối với nhau bằng các lối đi, có kiến trúc ít nhiều tương đồng nhau. Cả Đông Lục Cung và Tây Lục Cung đều được quy hoạch chia làm hai bên, mỗi bên ba cung điện nhỏ, ngăn cách bằng một con đường hẹp từ bắc xuống nam. Mỗi cung đều có sân, điện chính và điện phụ. Điện chính nằm giữa, còn điện phụ nằm ở hai bên đông, tây. Sân trước và chính điện trước là nơi tiếp khách, còn sân sau và chính điện sau thì được dùng làm nơi sinh hoạt. Thê thiếp từ bậc Tần trở lên được vinh dự ở chính điện của một cung và là chủ vị của cung đó. Thê thiếp bậc thấp (Quý nhân trở xuống) sống trong điện phụ, được giám sát bởi các thê thiếp bậc cao hơn. Mười hai cung điện nhỏ là nơi sinh ra và lớn lên của nhiều vị Hoàng đế nhà Thanh, cũng là nơi mà họ được học tập lối sống hoàng gia.[134][135] Cuối thời nhà Thanh, Từ Hi Thái hậu ở tại Trữ Tú cung, thuộc Tây Lục Cung nên được gọi là "Tây Thái hậu". Người đồng nhiếp chính với bà, Từ An Thái hậu, sống ở Chung Túy cung, thuộc Đông Lục Cung, nên được gọi là "Đông Thái hậu".
Sau đây là danh sách 12 cung:
Phía tây Nội Đình là khu vực "Quả Phụ Viện" (寡婦院), gồm Từ Ninh Cung (慈寧宮), Thọ Khang Cung (壽康宮) và một số cung điện khác cho các thê thiếp góa bụa của các Hoàng đế đời trước sinh sống. Theo quan niệm phong kiến, thê thiếp của các bậc Tiên đế không nên ở gần các Hoàng đế đương nhiệm, vì vậy sau khi một Hoàng đế qua đời, thê thiếp của Hoàng đế đó phải chuyển từ Đông Tây Lục Cung đến khu Quả Phụ Viện. Từ Ninh Cung được xây dựng bởi Thuận Trị trong vòng mười năm để phụng dưỡng sinh mẫu là Hiếu Trang Hoàng Thái hậu. Ngoài ra, các thê thiếp khác của Hoàng Thái Cực là Ý Tĩnh Đại Quý phi và Khang Huệ Thục phi cũng ở đây. Khi Thuận Trị qua đời, Khang Hi lại cho xây dựng Ninh Thọ Cung để làm nơi ở cho thê thiếp của Thuận Trị. Khi Ung Chính lên ngôi, sinh mẫu Đức Phi không nhận tôn hiệu Hoàng Thái hậu và cũng không dọn ra Ninh Thọ Cung, mà bà vẫn ở Vĩnh Hòa Cung đến khi qua đời.[136] Sau khi Càn Long lên ngôi, nhiều phi tần của Khang Hi vẫn còn sống và đều đang ở Ninh Thọ Cung, vì vậy sinh mẫu của Càn Long là Sùng Khánh Hoàng Thái hậu không có chỗ ở (Từ Ninh Cung từ khi Hiếu Trang Hoàng Thái hậu qua đời vào năm Khang Hi thứ 26 thì không còn người ở nữa). Vì vậy, Sùng Khánh Hoàng thái hậu tạm thời ở Cảnh Nhân Cung, còn các phi tần khác của Ung Chính là Dụ Quý phi, Tề phi, Khiêm phi thì trú tại Thừa Càn Cung và Chung Túy Cung. Để phụng dưỡng Thái hậu, Càn Long đã cho xây dựng Thọ Khang Cung ở phía tây của Từ Ninh Cung từ năm Ung Chính thứ 13 (ngày 4 tháng 12) đến năm Càn Long thứ nhất (ngày 24 tháng 10). Ngoài ra, Càn Long còn cho sửa lại khu vực phía sau Từ Ninh Cung thành Thọ Tam Cung (Thọ Tây Cung, Thọ Trung Cung, Thọ Đông Cung) và phía đông của Từ Ninh Cung thành Thọ Tam Sở (Thọ Đầu Sở, Thọ Nhị Sở, Thọ Tam Sở) cho các góa bụa của Ung Chính dọn từ Đông Lục Cung đến trú.[137]
Tôn giáo giữ một vị trí quan trọng trong đời sống chốn cung đình. Thời nhà Thanh, Khôn Ninh Cung trở thành nơi tổ chức các nghi lễ Shaman giáo của người Mãn. Đồng thời, Đạo giáo bản địa vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong suốt hai triều đại Minh và Thanh. Có hai điện thờ Đạo giáo trong Tử Cấm Thành, một ở Ngự Hoa Viên và một ở phần trung tâm Nội Đình.[138]
Một hình thức tôn giáo thịnh hành khác trong cung đình nhà Thanh là Phật giáo. Có một số ngôi đền và điện thờ nằm rải rác khắp Nội Đình, bao gồm cả Phật giáo Tây Tạng (Lạt Ma giáo). Các biểu tượng Phật giáo cũng được áp dụng phổ biến trong trang trí nội thất ở nhiều tòa nhà.[139] Trong số này, Vũ Hoa Các là một trong những công trình nổi tiếng nhất. Tòa nhà này chứa một số lượng lớn các bức tượng Phật giáo, biểu tượng, và mạn–đà–la, được sắp xếp theo nghi lễ.[140]
Ba mặt Tử Cấm Thành là các khu vườn hoàng gia. Phía bắc là Công viên Cảnh Sơn, còn gọi là Đồi phòng vệ, một ngọn đồi nhân tạo được đắp từ phần đất đào hào và hồ ở khu vực lân cận.[141]
Ở phía tây Tử Cấm Thành là Trung Nam Hải, trước đây từng là một khu vườn hoàng gia, nằm giữa hai hồ nước thông nhau, hiện đang là trụ sở trung tâm của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Về phía tây bắc là Công viên Bắc Hải, cũng nằm giữa một vài hồ nước nối với phía nam và là một công viên hoàng gia nổi tiếng.
Ở phía nam Tử Cấm Thành là hai ngôi đền quan trọng – Đền thờ Tiên đế (Thái Miếu) (tiếng Trung: 太廟; bính âm: Tàimiào) và Bắc Kinh Xã Tắc đàn (tiếng Trung: 社稷壇; bính âm: Shèjìtán), những nơi mà Hoàng đế tỏ lòng tôn kính với linh hồn tổ tiên và tinh thần dân tộc. Ngày nay, hai địa điểm trên lần lượt là Hội trường Văn hóa Nhân dân lao động Bắc Kinh[142] và Công viên Trung Sơn (với mục đích tưởng niệm Tôn Trung Sơn).[143]
Ở phía nam Tử Cấm Thành là hai cổng thành gần giống nhau, nằm dọc theo trục chính. Đó là Đoan Môn (tiếng Trung: 端门; bính âm: Duānmén) và Thiên An Môn nổi tiếng hơn, treo ảnh chân dung Mao Trạch Đông ở chính giữa và hai tấm biển ở hai bên trái, phải có tiêu đề lần lượt là: "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa muôn năm" (tiếng Trung: 中华人民共和国万岁; bính âm: zhōnghuárénmíngònghéguówànsuì) và "Đại đoàn kết nhân dân thế giới muôn năm" (tiếng Trung: 世界人民大团结万岁; bính âm: shìjièrénmíndàtuánjiéwànsuì). Thiên An Môn kết nối khu vực Tử Cấm Thành với trung tâm hiện đại, mang tính biểu tượng của nhà nước Trung Quốc, Quảng trường Thiên An Môn.
Mặc dù sự phát triển đô thị được kiểm soát chặt chẽ trong và xunh quanh Tử Cấm Thành, trong thế kỷ qua, việc phá hủy và tái thiết không kiểm soát, đôi khi có động cơ chính trị, đã làm thay đổi đặc điểm của các khu vực lân cận khu phức hợp cung điện. Kể từ năm 2000, chính quyền thành phố Bắc Kinh đã nỗ lực ngăn chặn các cơ quan chính phủ và quân đội chiếm đóng một số tòa nhà lịch sử, đồng thời đã thiết lập một công viên xung quanh những phần còn lại của các bức tường bao quanh Hoàng Thành. Năm 2004, một sắc lệnh liên quan đến chiều cao của các tòa nhà và các hạn chế về quy hoạch đô thị đã được đổi mới, để thiết lập khu vực Hoàng Thành và phía bắc của thành phố như một vùng đệm cho Tử Cấm Thành.[144] Năm 2005, Hoàng thành và Bắc Hải (như một hạng mục mở rộng của Di Hòa Viên) được đưa vào danh sách rút gọn Di sản thế giới tiếp theo ở Bắc Kinh.[145]
Thiết kế của Tử Cấm Thành, từ bố cục tổng thể đến từng chi tiết nhỏ nhất, đều được lên kế hoạch tỉ mỉ để phản ánh các nguyên tắc triết học, tôn giáo, và trên hết là tượng trưng cho sự uy nghiêm của quyền lực Hoàng đế. Một vài ví dụ đáng chú ý về các thiết kế mang tính biểu trưng bao gồm:
Các bộ sưu tập của Bảo tàng Cố cung được tập hợp dựa trên các bộ sưu tập của hoàng gia nhà Thanh, bao gồm tranh vẽ, đồ gốm sứ, con dấu, bia, tác phẩm điêu khắc, đồ sứ khắc, đồ đồng, đồ tráng men, v.v. Theo kiểm toán mới nhất, bộ sưu tập có tổng cộng 1.862.690 tác phẩm nghệ thuật. Ngoài ra, các thư viện hoàng gia cũng lưu giữ số lượng lớn sách và tài liệu lịch sử quý hiếm, bao gồm các tài liệu triều chính của hai triều đại Minh và Thanh, về sau đã được chuyển đến Kho lưu trữ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc.[149]
Năm 1933, trước mối đe dọa từ quân đội Nhật Bản, người ta buộc phải sơ tán những phần quan trọng nhất của bộ sưu tập. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, bộ sưu tập được đưa trở lại Nam Kinh. Tuy nhiên, trước chiến thắng cận kề của Đảng Cộng sản ở cuối cuộc Nội chiến Trung Quốc, chính phủ Quốc Dân đảng quyết định vận chuyển bộ sưu tập đến Đài Loan. Trong số 13.491 hộp đồ tạo tác được sơ tán, 2.972 hộp hiện nằm trong Bảo tàng Cố cung Quốc gia ở Đài Bắc. Hơn 8.000 hộp đã được trả về Bắc Kinh, 2.221 hộp vẫn được cất giữ cho đến ngày nay dưới sự quản lý của Bảo tàng Nam Kinh.[37]
Bảo tàng Cố cung lưu giữ 340.000 tác phẩm gốm và sứ, đến từ các bộ sưu tập hoàng gia từ thời nhà Đường và nhà Tống. Nơi đây cũng có gần 50.000 bức tranh, trong đó có hơn 400 bức có niên đại từ trước thời nhà Nguyên, nhiều nhất Trung Quốc.[150] Bộ sưu tập đồ đồng của bảo tàng thậm chí có niên đại từ thời nhà Thương. Trong số 10.000 tác phẩm được lưu giữ, khoảng 1.600 là đồ khắc từ thời tiền Tần (đến năm 221 TCN). Một phần quan trọng của bộ sưu tập đồ đồng là các đồ dùng nghi lễ cung đình.[151] Bảo tàng Cố cung sở hữu một trong những bộ sưu tập đồng hồ cơ học thế kỷ 18–19 lớn nhất thế giới, với hơn 1.000 chiếc do cả Trung Quốc lẫn nước ngoài sản xuất. Đồng hồ Trung Quốc đến từ các xưởng riêng của hoàng cung, đồng hồ nước ngoài thì đến từ các quốc gia như Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong số này, phần lớn nhất có xuất xứ từ Anh.[152] Ngọc bích giữ một vai trò độc đáo trong văn hóa Trung Quốc.[153] Bộ sưu tập ngọc bích của bảo tàng có khoảng 30.000 tác phẩm. Trong đó, phần có niên đại trước thời nhà Nguyên có những tác phẩm rất nổi tiếng trong suốt chiều dài lịch sử, tác phẩm lâu đời nhất thì đến từ tận thời đồ đá mới.[154] Ngoài các tác phẩm nghệ thuật, một phần lớn bộ sưu tập của bảo tàng là các hiện vật cung đình, có cả các vật phẩm xuất hiện trong cung điện hoặc được hoàng tộc sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, góp phần lưu giữ những nếp sống thường nhật và nghi lễ của hoàng gia xưa kia.[155]
Tử Cấm Thành đã ảnh hưởng đến sự phát triển kiến trúc Trung Quốc về sau và là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật.
Tử Cấm Thành trên các tác phẩm nghệ thuật, phim ảnh, văn học và văn hóa đại chúng
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.