Đài Loan
quốc đảo và một khu vực tranh chấp ở khu vực Đông Á / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trung Hoa Dân quốc (tiếng Trung: 中華民國; bính âm: Zhōnghuá Mínguó) là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị nên trong một số trường hợp còn được gọi là Đài Loan (tiếng Trung: 臺灣 hoặc 台灣; bính âm: Táiwān) hay Đài Bắc Trung Hoa (tiếng Trung: 中華台北 hoặc 中華臺北; Hán-Việt: Trung Hoa Đài Bắc; bính âm: Zhōnghuá Táiběi).[12]
Trung Hoa Dân Quốc
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Quốc ca:
Quốc kỳ ca:
| |
Quốc hoa: Hoa Mai 梅花 Méihuā (tiếng Quan thoại) Môe-hôa (tiếng Phúc Kiến) Mòi-fà (tiếng Khách Gia) Quốc ấn 中華民國之璽 Trung Hoa Dân Quốc Chi Tỉ 榮典之璽 Vinh Điển Chi Tỉ | |
Hiển thị quả cầu với Đảo Đài Loan được tô đậm Hiển thị bản đồ với các lãnh thổ do Trung Hoa Dân Quốc quản lý (Vùng Tự do của Trung Hoa Dân Quốc) | |
Tổng quan | |
Vị thế | Quốc gia không thuộc Liên Hợp Quốc, bị hạn chế công nhận chủ quyền nhưng độc lập trên thực tế |
Thủ đô | Đài Bắc[1] 25°02′B 121°38′Đ |
Thành phố lớn nhất | Tân Bắc |
Ngôn ngữ quốc gia[lower-alpha 1] | |
Văn tự chính thức |
|
Sắc tộc | 95% Người Hán[5] ∟ 70% Người Phúc Kiến ∟ 14% Người Khách Gia ∟ 14% Những người nhập cư từ năm 1949[lower-alpha 3] 3,1% Những người mới nhập cư 2,4% Thổ dân[lower-alpha 4] |
Tôn giáo chính |
|
Tên dân cư | Người Đài Loan |
Chính trị | |
Chính phủ | Cộng hòa bán tổng thống đơn nhất |
Lại Thanh Đức | |
Trác Vinh Thái | |
Hàn Quốc Du | |
Lập pháp | Lập pháp viện |
Lịch sử | |
Thành lập | |
10 tháng 10 năm 1911 | |
1 tháng 1 năm 1912 | |
25 tháng 10 năm 1945 | |
25 tháng 12 năm 1947 | |
7 tháng 12 năm 1949 | |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 36.197 km2 13.976 mi2 |
Dân số | |
• Ước lượng 2018 | 23.780.452 (hạng 53) |
• Điều tra 2010 | 23.123.866[6] (hạng 53) |
• Mật độ | 650/km2 (hạng 17) 1.683,5/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2020 |
• Tổng số | 1.275 tỷ USD[7] (Không xếp hạng) |
54,020 USD[7] (Không xếp hạng) | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2020 |
• Tổng số | 635,5 tỷ USD[7] (hạng 21) |
• Bình quân đầu người | 30,113 USD[7] (Không xếp hạng) |
Đơn vị tiền tệ | Tân Đài tệ (NT$) (TWD) |
Thông tin khác | |
Gini? (2017) | 34.1 trung bình |
HDI? (2017) | 0.908[lower-alpha 5] rất cao · hạng 21 |
Múi giờ | UTC+8 (Giờ chuẩn Quốc gia) |
Cách ghi ngày tháng |
|
Điện thương dụng | 110V–60Hz |
Giao thông bên | phải |
Mã điện thoại | +886 |
Mã ISO 3166 | TW |
Tên miền Internet |
Trung Hoa Dân Quốc | |||||||||||||||||||||
Phồn thể | 中華民國 | ||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||||||||||||||||
Đảo Đài Loan nằm ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương, ở giữa quần đảo Ryukyu của Nhật Bản và quần đảo Philippines, tách rời khỏi lục địa Á-Âu đồng thời có đường biên giới trên biển giáp với Trung Quốc đại lục thông qua eo biển Đài Loan, Đài Loan có diện tích vào khoảng 36.000 km², là đảo lớn thứ 38 trên thế giới với khoảng 70% diện tích là đồi núi, vùng đồng bằng tập trung chủ yếu tại khu vực ven biển phía tây. Do nằm tại giao giới giữa khí hậu cận nhiệt đới và nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên cùng hệ sinh thái tương đối phong phú và đa nguyên.[13]
Thủ đô của Đài Loan được đặt tại Đài Bắc,[14] thành phố lớn nhất là Tân Bắc bao quanh Đài Bắc, tổng nhân khẩu được ước tính vào khoảng 23,5 triệu người với thành phần chủ yếu là người Hán, dân nhập cư đến từ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đông Nam Á và số ít thổ dân Đài Loan.[15]
Những thổ dân Đài Loan bản địa đã cư trú trên hòn đảo từ thời kỳ cổ đại và xã hội Đài Loan vẫn trong trạng thái nguyên thủy cho đến khi người Hà Lan đến. Các sắc tộc từ Quảng Đông, Phúc Kiến bắt đầu di cư tới Đài Loan với số lượng lớn vào thời kỳ chiếm đóng của thực dân Hà Lan và Tây Ban Nha trong giai đoạn đầu của thế kỷ 17. Năm 1661, Trịnh Thành Công thiết lập nhà nước đầu tiên của người Hán trên đảo và trục xuất người Hà Lan. Năm 1683, nhà Thanh đánh bại chính quyền họ Trịnh và sáp nhập Đài Loan. Nhà Thanh cắt nhượng khu vực này cho Đế quốc Nhật Bản năm 1895 sau khi chiến bại. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ nhà Thanh và giành quyền quản lý Trung Quốc đại lục năm 1911. Sau khi Nhật Bản thua trận và đầu hàng Đồng Minh trong Thế chiến II, Trung Hoa Dân Quốc một lần nữa giành lại quyền kiểm soát đại lục cũng như đảo Đài Loan. Sau thất bại trong Nội chiến Quốc-Cộng, Tưởng Giới Thạch cùng chính phủ Trung Hoa Dân Quốc rút đến đây, còn Đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại đại lục. Nhiều năm sau, do ảnh hưởng của chiến tranh Lạnh, Trung Hoa Dân Quốc vẫn được nhiều quốc gia nhìn nhận là đại biểu hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, đồng thời là một thành viên trong Hội đồng Bảo an.[16][17] Năm 1971, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa giành được quyền đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do đó đánh mất sự công nhận quốc tế trên quy mô lớn.[17]
Trong giai đoạn cuối của thế kỷ 20, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc trên đảo tập trung phát triển kinh tế và triển khai nhiều cải cách dân chủ, lấy Học thuyết Tam Dân của Tôn Trung Sơn làm nòng cốt.[18] Nền kinh tế Đài Loan từ thập niên 1960 trở đi có sự phát triển thần tốc, tạo nên Kỳ tích Đài Loan. Từ thập niên 1990, Đài Loan trở thành quốc gia phát triển. Đài Loan hiện nay là trung cường quốc[19] và đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao thù địch dựa trên nguyên tắc Một Trung Quốc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang cản trở sự hội nhập của Đài Loan.