J1 League (J1リーグ Jei Wan Rīgu) hay đơn giản là J1 là hạng đấu cao nhất của Giải bóng đá chuyên nghiệp Nhật Bản (日本プロサッカーリーグ Nippon Puro Sakkā Rīgu) và là giải đấu cao nhất trong hệ thống bóng đá Nhật Bản.[1][2][3][4][5][6][7] Đây là một trong những giải đấu thành công nhất trong các giải đấu cấp câu lạc bộ tại châu Á và là giải đấu duy nhất được xếp hạng 'A' bởi AFC. Hiện tại, J1 League là hạng đấu số một trong Hệ thống các giải bóng đá Nhật Bản. Hạng đấu thứ hai là J2 League. Giải hiện được tài trợ bởi Meiji Yasuda Life vì thế giải có tên chính thức là Meiji Yasuda J1 League.
Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. |
Mùa giải hiện tại: J1 League 2023 | |
Thành lập | 1993 |
---|---|
Quốc gia | Nhật Bản |
Liên đoàn | AFC |
Số đội | 20 |
Cấp độ trong hệ thống | 1 |
Xuống hạng đến | J2 League |
Cúp trong nước | Cúp Hoàng đế Yamazaki Nabisco Cup Siêu cúp Nhật Bản |
Cúp quốc tế | AFC Champions League Elite AFC Champions League Two |
Đội vô địch hiện tại | Vissel Kobe (lần thứ 1) (2023) |
Đội vô địch nhiều nhất | Kashima Antlers (8 lần) |
Thi đấu nhiều nhất | Seigo Narazaki (631) |
Vua phá lưới | Yoshito Ōkubo (179 bàn) |
Đối tác truyền hình | DAZN (tại Nhật Bản) NHK YouTube (ngoài Nhật Bản) |
Trang web | Website |
Lịch sử
Các giai đoạn của J1
Trước khi thành lập giải chuyên nghiệp (1992 trở về trước)
Trước khi J.League ra đời, giải bóng đá cấp câu lạc bộ cao nhất khi đó là Nihon Sakkā Rīgu (日本サッカーリーグ), gồm các CLB nghiệp dư.[8][9] Được tham dự đông đảo trong thời kì phát triển bùng nổ của nước Nhật cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 (khi đội tuyển quốc gia Nhật Bản giành huy chương đồng Olympic tại Thế vận hội năm 1968 ở Mexico), giải này đã đi xuống trong những năm 1980, nói chung là tình hình xấu đi trên toàn thế giới. Người hâm mộ ít ỏi, sân bãi chất lượng thấp và ĐTQG Nhật Bản cũng không ngang tầm với các cường quốc châu Á. Nhằm nâng cao trình độ thi đấu trong nước, cố gắng thu hút nhiều người hâm mộ hơn và tăng cường sức mạnh cho đội tuyển quốc gia, Hiệp hội bóng đá Nhật Bản (JFA) đã quyết định thành lập giải đấu chuyên nghiệp.
Liên đoàn bóng đá chuyên nghiệp, J.League được thành lập vào năm 1992, với tám đội bóng được rút ra từ Giải hạng nhất, một đội từ Giải hạng hai và Shimizu S-Pulse mới thành lập. Đồng thời, Nihon Sakkā Rīgu đổi tên và trở thành Japan Futtobōru Līgu trước đây, một giải đấu bán chuyên nghiệp. Mặc dù J.League mới chính thức ra mắt cho đến năm 1993, thì cúp Yamazaki Nabisco đã được tổ chức giữa mười CLB vào năm 1992, để chuẩn bị cho mùa giải khai mạc.
Mùa giải mở đầu và quảng bá J.League (1993–1995)
J.League chính thức khởi tranh mùa giải đầu tiên với 10 câu lạc bộ vào ngày 15 tháng 5 năm 1993 khi Verdy Kawasaki (hiện tại là Tokyo Verdy) tiếp đón Yokohama Marinos (hiện tại là Yokohama F. Marinos) trên Sân vận động Quốc gia Kasumigaoka.
Giai đoạn sau (1996–1999)
Cho dù giải đấu gặt hái nhiều thành công trong ba năm đầu tiên, tới đầu năm 1996, số lượng người tham dự giải đấu sụt giảm nhanh chóng. Năm 1997, số người tham dự trung bình là 10.131, so với hơn 19.000 người vào năm 1994. Đáng chú ý, huấn luyện viên Arsène Wenger đã tiếp quản Nagoya Grampus Eight trong thời gian này.
Thay đổi cơ sở vật chất và thể thức thi đấu (1999–2004)
Ban lãnh đạo của giải đấu cuối cùng cũng nhận ra rằng họ đang đi sai hướng. Để giải quyết vấn đề, ban lãnh đạo đã đưa ra hai giải pháp.
Đầu tiên, họ công bố Tầm nhìn Trăm năm của J.League, trong đó đặt mục tiêu thành lập 100 câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Nhật Bản đến năm 2092, cũng là mùa giải thứ một trăm. Liên đoàn cũng khuyến khích các CLB quảng bá các hoạt động thể thao và sức khỏe, có thể liên quan đến bóng đá hoặc hoặc thậm chí không liên quan đến bóng đá, giành lấy sự tài trợ địa phương và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với quê hương của họ ở cấp cơ sở. Liên đoàn tin rằng điều này sẽ cho phép các câu lạc bộ gắn kết với thành phố và thị trấn tương ứng của họ, nhận được hỗ trợ từ chính quyền địa phương, các công ty và quần chúng nhân dân. Nói cách khác, các CLB sẽ có thể dựa vào người dân địa phương, thay vì chỉ là các nhà tài trợ lớn của quốc gia.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng của giải đấu đã thay đổi rất nhiều vào năm 1999. Liên đoàn mua lại 9 câu lạc bộ từ Japan Futtobōru Līgu bán chuyên, cùng một CLB từ J.League, tạo ra một hệ thống hai giải đấu. Ttrở thành J.League Division 1 (J1) với 16 đội, J.League Division 2 (J2) ra mắt với mười đội vào năm 1999. Giải bóng đá hạng nhì Nhật Bản trước đây thì trở thành giải hạng ba.
Ngoài ra, cho đến năm 2004 (ngoại trừ mùa giải 1996), mùa giải J1 được chia thành hai phần. Vào cuối mỗi mùa giải, đương kim vô địch của mỗi phần sẽ đấu trận hai lượt đi-về nhằm xác định đội chiến thắng chung cuộc và đội á quân. Júbilo Iwata năm 2002 và Yokohama F. Marinos năm 2003, đã giành chiến thắng ở cả hai lượt của mùa giải tương ứng, do đó các đội này không cần phải tham dự thêm trận playoff. Đây cũng là một phần lí do mà sau này giải đấu bãi bỏ hệ thống chia mùa, bắt đầu từ năm 2005.
Thể thức châu Âu & AFC Champions League (2005–2008)
Kể từ mùa giải 2005, J.League Division 1 bao gồm 18 câu lạc bộ (từ 16 CLB vào năm 2004) và thể thức của mùa giải trở nên giống với bóng đá châu Âu. Số câu lạc bộ xuống hạng cũng tăng từ 2 lên 2,5, với đội đứng thứ 3 đến đứng bét sẽ tham dự Trận tranh Lên/Xuống hạng với đội hạng ba J2. Kể từ đó, ngoài một vài điều chỉnh nhỏ, giải đấu vẫn ổn định.
Trong những năm đầu, các đội bóng Nhật Bản không coi trọng AFC Champions League, một phần là do khoảng cách di chuyển và các đội bóng liên quan. Tuy nhiên, tại mùa giải Champions League 2008, ba đội bóng của Nhật Bản đã lọt vào tứ kết.[10]
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với việc bao gồm A-League ở Đông Á, sự ra mắt của Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ, và thị trường bóng đá tăng cao ở lục địa châu Á, cả giải đấu và các đội bóng đã chú ý nhiều hơn đến các giải đấu tại châu lục này. Ví dụ, CLB Kawasaki Frontale đã xây dựng được một lượng người hâm mộ đáng kể tại Hồng Kông, nhờ việc họ tham dự Champions League châu Á mùa giải 2007.[11] Những nỗ lực không ngừng đã dẫn đến thành công của Urawa Red Diamonds năm 2007, và Gamba Osaka năm 2008. Nhờ công tác quản lí giải đấu đầy xuất sắc và khả năng cạnh tranh tại mọi đấu trường Á châu, AFC đã trao cho J.League thứ hạng cao nhất, và có tổng cộng tới bốn suất tham dự bắt đầu từ mùa giải 2009. Liên đoàn coi đây là cơ hội để bán bản quyền truyền hình cho nước ngoài, đặc biệt là khu vực toàn châu Á.
Cũng bắt đầu từ mùa giải 2008, đội đoạt Cúp Thiên Hoàng sẽ được tham dự Champions League mùa giải kế tiếp, thay vì phải chờ cả năm (tức là đương kim vô địch Cúp Hoàng Đế 2005, là Tokyo Verdy, tham dự ngay mùa giải ACL 2007, thay vì mùa giải 2006). Để khắc phục vấn đề tụt hậu kéo dài một năm này, nhà vô địch Cúp Thiên Hoàng 2007, CLB Kashima Antlers đã được miễn thi đấu. Tuy nhiên, chính Kashima Antlers đã kết thúc mùa giải ACL 2009 bằng chức vô địch J.League mùa giải 2008.
Giai đoạn hiện đại (2009–2016)
Ba sự thay đổi lớn được thấy từ mùa giải 2009. Đầu tiên, bắt đầu từ mùa giải này, có tới bốn suất CLB được tham dự AFC Champions League. Thứ hai, số suất xuống hạng tăng lên ba. Cuối cùng, vị trí cầu thủ AFC cũng được triển khai bắt đầu từ mùa giải này. Mỗi đội bóng sẽ được phép sở hữu tổng cộng bốn cầu thủ ngoại quốc; tuy nhiên, chỉ một vị trí được dành cho cầu thủ đến từ nước AFC mà không phải Nhật Bản. Ngoài ra, theo yêu cầu của việc trở thành thành viên Liên đoàn bóng đá châu Á, vào năm 2012, Giấy phép Câu lạc bộ J.League đã trở thành tiêu chí xác định liệu một CLB có được phép lên hạng cao hơn trong các giải đấu cấp độ chuyên nghiệp hay không. Ngoài ra, không có thay đổi nào khác xảy ra với J.League Division 1 khi mà số lượng CLB vẫn giữ nguyên ở mức 18 đội.
Năm 2015, J.League Division 1 chính thức đổi tên thành J1 League. Ngoài ra, thể thức giải đấu thay đổi thành hệ thống ba giai đoạn. Mùa giải được chia thành giai đoạn đầu tiên và thứ hai, sau đó là giai đoạn vô địch thứ ba và cuối cùng. Giai đoạn thứ ba bao gồm ba đến năm đội. Đội tích lũy được điểm số cao nhất mỗi giai đoạn và ba điểm tích lũy cao nhất cho toàn mùa giải thì sẽ đủ điều kiện. Nếu cả hai đội vô địch giai đoạn này đều lọt vào danh sách ba đội dẫn đầu của mùa giải, thì chỉ có ba đội đủ điều kiện tham dự vòng đấu vô địch. Các đội này sau đó sẽ tham dự vòng đấu loại trực tiếp vô địch, nhằm quyết định đội bóng sẽ giành chức vô địch.
Hiện nay (2017–)
Mặc dù định dạng đa giai đoạn mới ban đầu được báo cáo là đã bị khóa lại tới năm mùa, do phản ứng tiêu cực từ bộ phận người hâm mộ khó tính và không thu hút được những người hâm mộ bình thường, sau năm 2016, định dạng này bị loại bỏ, nhằm quay trở lại hệ thống đơn giai đoạn. Từ năm 2017, đội nào tích lũy được nhiều điểm nhất sẽ lập tức được vinh danh là nhà vô địch, sẽ không có giai đoạn vô địch nào diễn ra vào cuối mùa giải và từ năm 2018, hai CLB đứng cuối cùng sẽ xuống hạng, CLB đứng thứ 16 thì tham gia trận playoff với đội J2, toàn thắng loạt trận playoff thì thăng hạng. Nếu đội nào thắng trong trận playoff J2, thì được thăng hạng, với đội J1 vừa bị xuống hạng, nếu không đội J1 có thể giữ được vị trí của mình trong J1 League với việc thăng hạng thất bại của đội J2.
Tháng 11 năm 2017, Urawa Red Diamonds đã chơi trận chung kết AFC Champions League với Al Hilal. Sau trận hòa ở lượt đi, Urawa Red Diamonds thắng trận lượt về với tỷ số 1-0 và lên ngôi vô địch châu Á. Trong 10–15 năm qua, các câu lạc bộ bóng đá Nhật Bản đã vươn lên không chỉ ở châu lục mà còn trên trường quốc tế. Các đội Gamba Osaka và Urawa Red Diamonds đều đã lên ngôi vô địch châu Á và tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ, luôn đặt mục tiêu ít nhất là vào bán kết. Kashima Antlers đã lọt vào chung kết của giải này năm 2016, cuối cùng thua Real Madrid.
J.League sẽ chuyển sang lịch mùa giải châu Âu kể từ mùa giải 2026–27.
Các mốc thời gian
Năm | Sự kiện quan trọng | # J | # ACL | Xuống hạng |
---|---|---|---|---|
1989 |
|
|||
1990 |
| |||
1992 |
| |||
1993 |
|
10 | ||
1994 |
|
12 | ||
1995 |
|
14 | ||
1996 |
|
16 | ||
1997 |
|
17 | ||
1998 |
|
18 | ||
1999 |
|
16 | 2 | |
2000 | 16 | 2 | ||
2001 | 16 | 2 | ||
2002 | 16 | 2 | 2 | |
2003 |
|
16 | 2 | |
2004 |
|
16 | 2 | 0.5 |
2005 |
|
18 | 2 | 2.5 |
2006 |
|
18 | 2 | 2.5 |
2007 |
|
18 | 2 | 2.5 |
2008 |
|
18 | 2 + 1 | 2.5 |
2009 |
|
18 | 4 | 3 |
2010 | 18 | 4 | 3 | |
2011 |
|
|||
2012 | 18 | 4 | 3 | |
2013 | 18 | 4 | 3 | |
2014 | 18 | 4 | 3 | |
2015 |
|
18 | 4 | 3 |
2016 |
|
18 | 4 | 3 |
2017 |
|
18 | 4 | 3 |
2018 |
|
18 | 4 | 2.5 |
2019 |
|
18 | 4 | 2.5 |
2020 |
|
18 | 3 | 0 |
2021 |
|
20 | 3 | 4 |
2022 |
|
18 | 3 | 2.5 |
2023 |
|
18 | 3 | 1 |
2024 |
|
20 | ? | 3 |
Mùa giải
Thể thức
Hai mươi đội bóng sẽ thi đấu vòng tròn hai lượt (nhà và khách), tổng cộng là 38 trận mỗi đội. Mỗi câu lạc bộ sẽ nhận 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận hòa và 0 điểm khi thua.. Thứ hạng sẽ xếp theo điểm, nếu bằng điểm sẽ xét theo thứ tự sau:
- Hiệu số bàn thắng
- Số bàn thắng
- Thành tích đối đầu
- Điểm kỉ luật
Bốc thăm sẽ được định đoạt, nếu cần thiết. Tuy nhiên, nếu hai đội cùng xếp thứ nhất, thì cả hai đội sẽ đồng vô địch. Ba đội dẫn đầu sẽ tham dự AFC Champions League mùa tiếp theo, trong khi đó ba đội cuối bảng sẽ xuống chơi tại J2.
- Tiền thưởng (2020)
- Vô địch: 300.000.000 Yên
- Á quân: 120.000.000 Yên
- Hạng ba: 60.000.000 Yên
- Hạng tư: 60.000.000 Yên
- Hạng năm: 40.000.000 Yên
- Hạng sáu: 20.000.000 Yên
- Hạng bảy: 10.000.000 Yên
Quỹ J League phân phối cho 4 CLB hàng đầu (từ 2017)
- Vô địch: 1.550.000.000 yên
- Á quân: 700.000.000 yên
- Hạng ba: 350.000.000 yên
- Hạng tư: 180.000.000 yên
Các câu lạc bộ tham dự
Câu lạc bộ | Năm gia nhập |
Số mùa tại J1 |
Trụ sở | Mùa đầu tiên tại giải cao nhất |
Số mùa tại giải cao nhất |
Giai đoạn hiện tại ở giải cao nhất |
Lần gần nhất Vô địch |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Albirex Niigata | 1999 (J2) | 12 | Niigata & Seiro, Niigata | 2004 | 11 | 2004— | — |
Kashima Antlers | 1993 | 23 | Tây Nam của Ibaraki | 1985 | 26 | 1993— | 2009 |
Shonan Bellmare | 1994 | 9 | Nam và Trung Kanagawa | 1972 | 27 | 2015— | 1981 |
Yokohama F. Marinos | 1993 | 23 | Yokohama & Yokosuka, Kanagawa | 1979 | 35 | 1982— | 2004 |
Kawasaki Frontale | 1999 (J2) | 12 | Kawasaki, Kanagawa | 1977 | 14 | 2005— | — |
Gamba Osaka | 1993 | 22 | Suita, Osaka | 1986/87 | 27 | 2014— | 2014 |
Nagoya Grampus | 1993 | 23 | Nagoya, Aichi | 1973 | 31 | 1990/91— | 2010 |
Montedio Yamagata | 1999 (J2) | 4 | Toàn Yamagata | 2009 | 4 | 2015— | — |
Urawa Red Diamonds | 1993 | 22 | Saitama, Saitama | 1965 | 48 | 2001— | 2006 |
Kashiwa Reysol | 1995 | 19 | Kashiwa, Chiba | 1965 | 43 | 2011— | 2011 |
Sagan Tosu | 1999 (J2) | 4 | Tosu, Saga | 2012 | 4 | 2012— | — |
Sanfrecce Hiroshima | 1993 | 21 | Hiroshima, Hiroshima | 1965 | 43 | 2009— | 2013 |
Shimizu S-Pulse | 1993 | 23 | Shizuoka, Shizuoka | 1993 | 23 | 1993— | — |
F.C. Tokyo | 1999 (J2) | 21 | Tokyo | 2000 | 21 | 2012— | — |
Vegalta Sendai | 1999 (J2) | 8 | Sendai, Miyagi | 2002 | 8 | 2010— | — |
Ventforet Kofu | 1999 (J2) | 6 | Toàn Yamanashi | 2006 | 6 | 2013— | — |
Vissel Kobe | 1997 | 17 | Kobe, Hyōgo | 1997 | 17 | 2014— | — |
Matsumoto Yamaga | 2012 (J2) | 1 | Trung tâm Nagano | 2015 | 1 | 2015— | — |
Nguồn các đội tham dự:[13]
- Nền hồng chỉ các câu lạc bộ gần nhất lên hạng từ J. League Hạng 2.
- "Năm gia nhập" là năm câu lạc bộ gia nhập J. League.
- "Mùa giải đầu tiên tại giải cao nhất," "Số mùa tại giải cao nhất," "Giai đoạn hiện tại ở giải cao nhất," và "Lần gần nhất giành chức vô địch" bao gồm cả Japan Soccer League Hạng Nhất.
Các sân vận động tại giải Hạng nhất (2014)
Các sân sử dụng tại J. League:
Albirex Niigata | Kashima Antlers | Omiya Ardija | Cerezo Osaka | Gamba Osaka | Yokohama F. Marinos |
---|---|---|---|---|---|
Sân vận động Denka Big Swan | Sân vận động bóng đá Kashima | Sân vận động NACK5 Omiya | Sân vận động Yanmar Nagai | Sân vận động Kỷ niệm Expo '70 | Sân vận động Nissan |
Sức chứa: 42,300 | Sức chứa: 40,728 | Sức chứa: 15,300 | Sức chứa: 47,816 | Sức chứa: 21,000 | Sức chứa: 72,370 |
Kawasaki Frontale | Vissel Kobe | Nagoya Grampus | Tokushima Vortis | Urawa Red Diamonds | Kashiwa Reysol |
Sân vận động Kawasaki Todoroki | Sân vận động Noevir Kobe | Sân vận động Toyota | Sân vận động Pocarisweat | Sân vận động Saitama 2002 | Sân vận động Hitachi Kashiwa |
Sức chứa: 26.000 | Sức chứa: 30.132 | Sức chứa: 45.000 | Sức chứa: 20,441 | Sức chứa: 63,700 | Sức chứa: 15,900 |
Sagan Tosu | Sanfrecce Hiroshima | Shimizu S-Pulse | F.C. Tokyo | Vegalta Sendai | Ventforet Kofu |
Sân vận động Tiện nghi nhất | Sân vận động EDION Hiroshima | Sân vận động IAI Nihondaira | Sân vận động Ajinomoto | Sân vận động Sendai | Sân vận động Ngân hàng Yamanashi Chuo |
Sức chứa: 24,490 | Sức chứa: 50,000 | Sức chứa: 20,339 | Sức chứa: 50,100 | Sức chứa: 19,694 | Sức chứa: 17,000 |
Câu lạc bộ cũ
Câu lạc bộ | Năm gia nhập |
Số mùa tại J1 |
Trụ sở | Mùa đầu tiên tại giải cao nhất |
Số mùa tại giải cao nhất |
Giai đoạn hiện tại ở giải cao nhất |
Lần gần nhất Vô địch |
Giải đấu hiện tại |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Omiya Ardija | 1999 (J2) | 10 | Saitama, Saitama | 2005 | 10 | 2005–2014 | — | J2 |
Avispa Fukuoka | 1996 | 8 | Fukuoka, Fukuoka | 1996 | 8 | 2011 | — | J2 |
Cerezo Osaka | 1995 | 16 | Osaka (thành phố), Osaka | 1965 | 42 | 2010–2014 | 1980 | J2 |
Consadole Sapporo | 1998 | 5 | Sapporo, Hokkaidō | 1989/90 | 8 | 2012 | — | J2 |
Yokohama Flügels | 1993 | 6 | Yokohama, Kanagawa | 1985 | 11 | 1988/89–1998 | — | Giải thể |
JEF United Chiba | 1993 | 17 | Chiba & Ichihara, Chiba | 1965 | 44 | 1965–2009 | 1985/86 | J2 |
Júbilo Iwata | 1994 | 20 | Iwata, Shizuoka | 1980 | 29 | 1994–2013 | 2002 | J2 |
Kyoto Sanga | 1996 | 11 | Tây Nam Kyoto | 1996 | 11 | 2008–2010 | — | J2 |
Oita Trinita | 1999 (J2) | 8 | Toàn Oita | 2003 | 8 | 2013 | — | J2 |
Tokyo Verdy | 1993 | 14 | Tokyo | 1978 | 28 | 2008 | 1994 | J2 |
Tokushima Vortis | 2005 (J2) | 1 | Toàn Tokushima | 2014 | 1 | 2014 | — | J2 |
Yokohama FC | 2001 (J2) | 1 | Yokohama, Kanagawa | 2007 | 1 | 2007 | — | J2 |
- Nền xám chỉ các câu lạc bộ gần nhất xuống J. League Hạng 2.
- "Năm gia nhập" là năm câu lạc bộ gia nhập J. League.
- "Mùa giải đầu tiên tại giải cao nhất," "Số mùa tại giải cao nhất," "Giai đoạn hiện tại ở giải cao nhất," và "Lần gần nhất giành chức vô địch" bao gồm cả Japan Soccer League Hạng Nhất.
Thống kê
Lịch sử các giải vô địch
Kỷ nguyên chia mùa (1993–2004) Đậm chỉ nhà vô địch; † Mùa giải đơn; ‡ Câu lạc bộ vô địch cả hai giai đoạn
Năm | Giai đoạn 1 | Giai đoạn 2 | |
---|---|---|---|
1993 | Kashima Antlers | Verdy Kawasaki | |
1994 | Sanfrecce Hiroshima | Verdy Kawasaki | |
1995 | Yokohama Marinos | Verdy Kawasaki | |
1996 † | Kashima Antlers | ||
1997 | Kashima Antlers | Júbilo Iwata | |
1998 | Júbilo Iwata | Kashima Antlers | |
1999 | Júbilo Iwata | Shimizu S-Pulse | |
2000 | Yokohama F. Marinos | Kashima Antlers | |
2001 | Júbilo Iwata | Kashima Antlers | |
2002 ‡ | Júbilo Iwata | ||
2003 ‡ | Yokohama F. Marinos | ||
2004 | Yokohama F. Marinos | Urawa Red Diamonds |
Kỷ nguyên một mùa (2005–2014)
Câu lạc bộ thành công nhất
Câu lạc bộ in đậm đang thi đấu tại mùa 2022.
Câu lạc bộ | Vô địch | Á quân | Năm vô địch | Năm á quân |
---|---|---|---|---|
Kashima Antlers | 1996, 1998, 2000, 2001, 2007, 2008, 2009, 2016 | 1993, 1997, 2017 | ||
Yokohama F. Marinos | 1995, 2003, 2004, 2019 | 2000, 2002, 2013, 2021 | ||
Kawasaki Frontale | 2017, 2018, 2020, 2021 | 2006, 2008, 2009 | ||
Júbilo Iwata | 1997, 1999, 2002 | 1998, 2001, 2003 | ||
Sanfrecce Hiroshima | 2012, 2013, 2015 | 1994, 2018 | ||
Gamba Osaka | 2005, 2014 | 2010, 2015, 2020 | ||
Tokyo Verdy | 1993, 1994 | 1995 | ||
Urawa Red Diamonds | 2006 | 2004, 2005, 2007, 2014, 2016 | ||
Nagoya Grampus | 2010 | 1996, 2011 | ||
Kashiwa Reysol | 2011 | 2006, 2008, 2009 | ||
Shimizu S-Pulse | 1999 | |||
Vegalta Sendai | 2012 | |||
FC Tokyo | 2019 |
Xuống hạng
* In đậm là các câu lạc bộ xuống hạng;
†Thắng Trận tranh Lên/Xuống hạng J. League;
‡ Thua Trận tranh Lên/Xuống hạng J. League và xuống hạng
Các giải khác
- Giải quốc nội
- Cúp Thiên Hoàng (1921–nay)
- JOMO All-Stars (1993–nay)
- XEROX Super Cup (1994–nay)
- Yamazaki Nabisco Cup (1992–nay, trừ 1995)
- Giải quốc tế
- FIFA Club World Cup (2007–2008, 2011–2012)
- AFC Champions League (1969, 1986/87-2002/03, 2004–nay)
- Suruga Bank Championship (2008–nay)
- Giải không còn tồn tại
- A3 Champions Cup (2003–2007)
- Pan-Pacific Championship (2008, 2009)
- Trận tranh Lên/Xuống hạng J.League (2004–2008)
- Sanwa Bank Cup (1994–1997)
- Suntory Championship (1993–2004, trừ 1996)
Truyền thông
Nhật Bản
Tất cả các trận đấu của J1 đều được truyền trực tiếp qua DAZN cho đến mùa giải 2028, với một số trận đấu được chọn cũng được truyền hình trực tiếp cùng với các điểm nổi bật của các trận đấu khác cũng có trên đài truyền hình NHK.[14]
Bên ngoài Nhật Bản
Giải đấu hiện được phủ sóng toàn cầu (trừ Trung Quốc đại lục) bởi NHK World Premium (chỉ có tiếng Nhật)[15] và Dentsu.[16][17]
2020–2022
Quốc gia/Vùng lãnh thổ | Đài truyền hình |
---|---|
Úc | Optus Sport[18] |
Áo | SportdigitalDACH |
Đức | |
Thụy Sĩ | |
Brunei | Astro SuperSport, SPOTV |
Malaysia | |
Trung Quốc | K-Ball CHN
FTA và trả phí (truyền hình khu vực)
IPTV
Truyền trực tiếp |
Vùng Balkan | Sport Klub |
Hồng Kông | i-Cable |
Indonesia | MNC Sports, SPOTV |
Ireland | FreeSports[19] |
Anh | |
Israel | Sport 5 |
Ma Cao | TDM |
MENA | Dubai Sports beIn sport Alkass |
Đài Loan | ELTA |
Thái Lan | Siamsports (Truyền trực tiếp một số trận), PPTV (Chỉ một số trận) |
Ấn Độ | FanCode[20] |
Việt Nam | DatVietVAC |
^CHN – với tư cách là nhà phân phối chính, bao gồm các trận đấu J2.
^DACH – bắt đầu từ MW2 vào mùa giải 2020.
Xem thêm
- Kỷ lục J.League
- Giải thưởng J.League
- Cầu thủ chỉ định J.League
- Cầu thủ xuất sắc nhất tháng J. League
- Cột mốc bàn thắng J.League
- Các trận derby Nhật Bản
- Winning Eleven (trò chơi chính thức)
- Danh sách linh vật J.League
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikiwand in your browser!
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.