Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
quốc gia cộng hòa xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Nam Á / From Wikipedia, the free encyclopedia
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) là một nhà nước ở Đông Nam Á được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 với thủ đô là Hà Nội. Với Tổng tuyển cử năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành nhà nước có chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam[5][6], được Quốc hội Việt Nam khóa I thông qua mặc dù một số vùng lãnh thổ sau đó bị các lực lượng ngoại quốc và nhà nước khác quản lý về hành chính trên thực tế. Cuối Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, lãnh thổ Việt Nam bị chia làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời theo Hiệp định Genève. Theo Hiệp định Genève 1954, vùng lãnh thổ thuộc quản lý hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giáp với Trung Quốc ở phía bắc, Lào ở phía tây, và phía nam giáp với lãnh thổ quản lý bởi Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa, sau đó được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản). Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng được gọi là miền Bắc Việt Nam (tiếng Anh: North Vietnam, nguyên văn 'Bắc Việt Nam') để chỉ vị trí địa lý của phần lãnh thổ Việt Nam được quản lý bởi nhà nước này theo Hiệp định Genève. Từ năm 1954–1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước độc lập đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận.
|
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[a]
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1945–1976 | |||||||||||||
Lãnh thổ thuộc quản lý hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo Hiệp định Genève, 1954 | |||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Hà Nội 21°01′42″B 105°51′15″Đ | ||||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Việt | ||||||||||||
Tôn giáo chính | Tín ngưỡng hoặc Không tôn giáo Phật giáo Kitô giáo Nho giáo Đạo giáo | ||||||||||||
Tên dân cư | Người Việt | ||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Đơn nhất Marx–Lenin đơn đảng cộng hòa xã hội chủ nghĩa | ||||||||||||
Chủ tịch nước | |||||||||||||
• 1945–1969 | Hồ Chí Minh | ||||||||||||
• 1969–1976 | Tôn Đức Thắng | ||||||||||||
Thủ tướng | |||||||||||||
• 1945–1955 | Hồ Chí Minh | ||||||||||||
• 1955–1975 | Phạm Văn Đồng | ||||||||||||
Lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam | |||||||||||||
• 1951–1969 | Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam) | ||||||||||||
• 1945–1956 | Trường Chinh (Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam) | ||||||||||||
• 1956–1960 | Hồ Chí Minh (Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam) | ||||||||||||
• 1960–1976 | Lê Duẩn (Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam) | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) | ||||||||||||
19 tháng 8 năm 1945 | |||||||||||||
2 tháng 9 năm 1945 | |||||||||||||
6 tháng 1 năm 1946 | |||||||||||||
19 tháng 12 năm 1946 | |||||||||||||
21 tháng 7 năm 1954 | |||||||||||||
1 tháng 11 năm 1955 | |||||||||||||
28 tháng 1 năm 1973 | |||||||||||||
30 tháng 4 năm 1975 | |||||||||||||
2 tháng 7 năm 1976 | |||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||
• 1945–1954 | 331.699 km2 (128.070 mi2) | ||||||||||||
• 1954–1976 | 157.881 km2 (60.958 mi2) | ||||||||||||
Dân số | |||||||||||||
• 1945–1954 | 25.000.000 | ||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Đồng | ||||||||||||
| |||||||||||||
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam từ chỗ là thuộc địa của Pháp đã trở thành Đế quốc Việt Nam thân Nhật Bản sau khi Pháp đầu hàng và trao toàn bộ Đông Dương cho Phát xít Nhật Bản vào tháng 3 năm 1945. Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, bao gồm cả Việt Minh ở Việt Nam và Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập tại Hà Nội, chính quyền lâm thời được thiết lập trên toàn bộ đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo Việt Minh, trở thành người đứng đầu chính phủ mới và đã ngay lập tức tổ chức cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc vào ngày 06/01/1946 để Việt Nam có chính phủ và nhà nước chính danh trên toàn quốc.[7] Ngay sau khi Pháp quay lại Việt Nam với sự hỗ trợ của Anh và Mỹ, thì Kháng chiến chống Pháp đã nổ ra vào năm 1946. Sau 9 năm chiến tranh, ngày 21 tháng 7 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành thắng lợi, Hiệp định Genève được ký kết giữa các bên tham chiến, Việt Nam tạm thời bị chia làm 2 vùng tập kết tạm thời, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Lực lượng quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập kết về miền Bắc Việt Nam, trong khi đó, Quân đội Pháp và Quân đội Quốc gia Việt Nam (thuộc Liên hiệp Pháp) tập kết về miền Nam Việt Nam, quân Pháp sẽ rút hết khỏi Việt Nam sau 2 năm.
Hiệp định Genève xác định cuộc tổng tuyển cử thống nhất lãnh thổ Việt Nam sẽ diễn ra vào năm 1956. Người Pháp chấp nhận đề nghị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng phái đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[8], là cuộc tổng tuyển cử thống nhất sẽ được đặt dưới sự giám sát của các ủy ban tại chỗ[9]. Hoa Kỳ không công nhận Hiệp định Genève, đồng thời thực hiện "Kế hoạch can thiệp" nhằm trợ giúp cho Quốc gia Việt Nam (sau đó là Việt Nam Cộng hòa) từ chối thi hành tuyển cử[10]. Năm 1955, cuộc trưng cầu dân ý bị gian lận đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại (nguyên là hoàng đế nhà Nguyễn), sau đó chính quyền Việt Nam Cộng hòa được thành lập tại miền Nam Việt Nam do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống.[11] Đến hạn năm 1956, Ngô Đình Diệm tuyên bố từ chối thi hành tuyển cử, và cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam đã không thể diễn ra, khiến lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt về mặt nhà nước.[12] Thậm chí, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn cho rằng hành động của Ngô Đình Diệm còn nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.[13]
Trong Chiến tranh Việt Nam (1955–1975), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (còn gọi là Bắc Việt Nam) được sự hỗ trợ của các đồng minh ở phe Xã hội chủ nghĩa gồm Liên Xô và Trung Quốc đã chiến đấu chống lại quân đội của Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh như Hoa Kỳ, Australia, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và New Zealand. Ở thời điểm cao trào của cuộc chiến, Hoa Kỳ huy động tới 600.000 quân chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Đây là một trong những cuộc chiến tranh khốc liệt nhất kể từ sau Thế chiến thứ II, kéo dài 21 năm. Năm 1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời (chính phủ do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập) và được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận là chủ thể có chủ quyền pháp lý tại miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là đại diện cho nhân dân miền Nam trong cuộc chiến chống Mỹ, và không từ chối sự thống nhất chủ quyền trên cả nước. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của lực lượng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng sự hỗ trợ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1975. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là đại diện của hai nửa Việt Nam về mặt quản lý hành chính (miền Bắc và miền Nam) đã thống nhất về mặt Nhà nước thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua cuộc Tổng tuyển cử, vào ngày 2 tháng 7 năm 1976.