Chiến tranh Đông Dương
chiến tranh ở Đông Dương thuộc Pháp từ 1946 đến 1954 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Đông Dương, còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất là một cuộc xung đột diễn ra tại ba nước Đông Dương bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia, giữa một bên là Quân đội Viễn chinh Pháp cùng các lực lượng đồng minh bản xứ bao gồm lực lượng của Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia thuộc Liên hiệp Pháp, bên kia là lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) cùng các lực lượng kháng chiến khác của Lào (Pathet Lào) và Campuchia (Khmer Issarak). Cuộc chiến bắt đầu từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 khi Hồ Chí Minh ra lệnh Toàn quốc kháng chiến và kết thúc ngày 20 tháng 7 năm 1954 khi Hiệp định Genéve được ký kết. Tuy nhiên xung đột thật sự đã nổ ra từ ngày 23 tháng 9 năm 1945 khi quân Pháp theo chân quân Anh tiến vào miền Nam Việt Nam để giải giáp quân Nhật.
Bài này có thể quá dài để đọc hay điều hướng. Kích thước văn xuôi của bài hiện là 346 KB. (tháng 3/2021) |
Chiến tranh Đông Dương | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh tại Đông Dương và Phi thực dân hóa châu Á | |||||||
Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống: Quân Lào vượt sông Mê Kông trở về nước sau trận Điện Biên Phủ; Biệt kích Thủy quân lục chiến Pháp đổ bộ lên bờ biển Việt Nam vào tháng 7 năm 1950; Xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee của Mỹ được Pháp sử dụng tại Việt Nam; Hội nghị Genève ngày 21 tháng 7 năm 1954; Một chiếc máy bay chiến đấu Grumman F6F-5 Hellcat chuẩn bị hạ cánh trên tàu sân bay Arromanches của Pháp đang hoạt động tại Vịnh Bắc Bộ. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Ủng hộ bởi: |
Ủng hộ bởi:
| ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Philippe Leclerc de Hauteclocque (1945–46) Jean-Étienne Valluy (1946–48) Roger Blaizot (1948–49) Marcel-Maurice Carpentier (1949–50) Jean de Lattre de Tassigny (1950–51) Raoul Salan (1952–53) Henri Navarre (1953–54) Bảo Đại Ngô Đình Diệm Nguyễn Văn Tâm Nguyễn Văn Hinh Harry S. Truman Dwight D. Eisenhower |
Hồ Chí Minh Võ Nguyên Giáp Nguyễn Chí Thanh Hoàng Văn Thái Văn Tiến Dũng Phạm Văn Đồng Trường Chinh Souphanouvong Kaysone Phomvihane Sơn Ngọc Minh Tou Samouth Trần Canh (cố vấn) | ||||||
Lực lượng | |||||||
Theo phương Tây: 239.000 (1950) 445.000 (gồm 146.000 quân Âu Phi và 299.000 quân các nước Đông Dương) (1954)[7] |
Theo phương Tây: 2.000.000+ du kích (1953)[12] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Quân Pháp và lê dương: 75.581 chết, 64.127 bị thương Phá huỷ 435 máy bay, bắn chìm 603 tàu chiến và ca nô, phá huỷ 9.283 xe quân sự, thu 255 pháo, 504 xe quân sự và 130.000 súng các loại.[14][15] |
191.605 chết[16] ~200.000 bị thương 100.000 bị bắt | ||||||
125,000–400,000 dân thường thiệt mạng[15][17][18][19] |
Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đây là giai đoạn đầu tiên trong "Cuộc kháng chiến 30 năm" của họ với mục tiêu giành độc lập cho Việt Nam (giai đoạn 2 là cuộc chiến với Hoa Kỳ). Cuộc chiến diễn ra trên khắp Việt Nam và lan ra cả các nước láng giềng Lào và Campuchia, nhưng chiến sự chính diễn ra chủ yếu tại miền Bắc Việt Nam. Sau 9 năm sa lầy và với thất bại tại Trận Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải chấp nhận ký kết Hiệp định Genève công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Cuộc chiến tranh này ở Việt Nam còn được gọi là Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến 9 năm, 9 năm kháng chiến trường kỳ, Thời 9 năm, Hồi 9 năm. Các tài liệu nghiên cứu, sách báo ở nước ngoài phần lớn gọi là Chiến tranh Việt-Pháp hoặc Chiến tranh Đông Dương.
Sau khi người Nhật đã bại trận và mất quyền kiểm soát lãnh thổ Liên bang Đông Dương (ngày nay là Việt Nam, Lào và Campuchia), Pháp đưa quân trở lại nhằm tái chiếm vùng này. Pháp tham gia cuộc chiến này nhằm buộc lãnh thổ Đông Dương phải tiếp tục nằm trong Liên hiệp Pháp mới được thành lập - theo tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp Charles de Gaulle và được quy định trong Hiến pháp Pháp năm 1946. Động cơ thúc đẩy Pháp tham chiến mang tính chính trị và tâm lý hơn là kinh tế. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để Đông Dương giành độc lập, các quyền lợi và tài sản của thực dân Pháp tại các thuộc địa hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo.[20]
Đa số lãnh đạo Pháp cho rằng cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô lớn hơn một chút so với một cuộc tái chiếm thuộc địa cổ điển, theo đó quân Pháp chiếm giữ các trung tâm dân cư và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà họ đã thực hiện rất thành công ở Maroc và Algérie. Nhưng trái với dự tính này, mặc dù Pháp chiếm ưu thế quân sự trong thời gian đầu, lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phát triển ngày càng mạnh và kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ ngày càng rộng. Đến cuối cuộc chiến, Pháp đã sa lầy vào một cuộc chiến hao người tốn của mà không tìm ra phương cách nào để chiến thắng, trong khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiểm soát trên 75% lãnh thổ.[20]
Trong khi đó, mục tiêu của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là giành độc lập cho dân tộc mình. Cuộc chiến giữa 1 cường quốc trên thế giới và 1 đất nước nghèo nàn lạc hậu đã diễn ra gần như lời Hồ Chí Minh đã nói:
- "Nó sẽ là một cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên thì sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, và rồi nó sẽ chạy trở lại vào rừng tối. Và dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy." [21]
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trên lãnh thổ của Đế quốc Pháp đã bùng nổ nhiều phong trào đòi độc lập, nhưng thất bại mở màn gây hiệu ứng dây chuyền và thiệt hại lớn nhất cho Pháp là cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân 3 nước Liên bang Đông Dương. Thất bại của Pháp đánh dấu việc chủ nghĩa thực dân kiểu cổ điển của các nước thực dân Châu Âu bị sụp đổ tại hàng loạt các thuộc địa trên toàn thế giới.