USS Tarawa (CV-40)
From Wikipedia, the free encyclopedia
USS Tarawa (CV/CVA/CVS-40, AVT-12) là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex được hoàn tất trong hoặc ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai cho Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tưởng niệm trận Tarawa đẫm máu tại mặt trận Thái Bình Dương vào năm 1943.[1][2]
Tàu sân bay USS Tarawa (CVA-40) gần eo biển Messina, Sicilia, tháng 12 năm 1952 | |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân New York |
Đặt lườn | 1 tháng 3 năm 1944 |
Hạ thủy | 12 tháng 5 năm 1945 |
Người đỡ đầu | bà Julian C. Smith |
Nhập biên chế | 8 tháng 12 năm 1945 |
Tái biên chế | 3 tháng 2 năm 1951 |
Xuất biên chế |
|
Xếp lớp lại |
|
Xóa đăng bạ | 1 tháng 6 năm 1967 |
Số phận | Bị bán để tháo dỡ ngày 3 tháng 10 năm 1968 tại Baltimore |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu sân bay Essex |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang |
|
Mớn nước |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 61 km/h (33 knot) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 2.600 |
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Máy bay mang theo | 90–100 máy bay |
Hệ thống phóng máy bay |
|
Tarawa được đưa ra hoạt động vào tháng 12 năm 1945, quá trễ để có thể tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau một giai đoạn ngắn phục vụ tại Viễn Đông, nó được cho xuất biên chế vào năm 1949, nhưng được cho tái biên chế trở lại không lâu sau đó do việc Chiến tranh Triều Tiên nổ ra; con tàu đã phục vụ tại khu vực Đại Tây Dương nhằm thay thế cho những tàu sân bay được gửi sang Triều Tiên. Vào đầu những năm 1950, nó được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công CVA, rồi sau đó thành một tàu sân bay chống tàu ngầm CVS. Ngoại trừ một chuyến đi duy nhất đến Viễn Đông, nó trải qua toàn bộ quãng đời phục vụ sau khi tái biên chế tại khu vực Đại Tây Dương và vùng biển Caribbe.
Không giống như những tàu chị em cùng lớp với nó, Tarawa chưa bao giờ được hiện đại hóa một cách đáng kể, nên trong suốt quãng đời phục vụ, nó vẫn giữ lại dáng dấp cổ điển của một con tàu lớp Essex thời Đệ Nhị thế chiến. Nó được cho xuất biên chế lần sau cùng vào năm 1960, và đang khi ở trong thành phần dự bị nó được xếp lại lớp thành một tàu vận chuyển máy bay AVT. Nó được tháo dỡ vào năm 1968.