Từ Hi Thái hậu
Hoàng thái hậu nhiếp chính triều Mãn Thanh (1835-1908) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ
ᡤᡳᠩᡤᡠᠵᡳ
ᡳᠯᡝᡨᡠ
ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ, Möllendorff: hiyoošungga gingguji iletu hūwangheo, Abkai: hiyouxungga gingguji iletu hvwangheu; tiếng Trung: 慈禧太后; bính âm: Cíxǐ Tàihòu [tsʰɨ̌.ɕì tʰâi.xôu]; trước đây La Mã hóa là Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi; 10 tháng 10 năm 1833 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后), Từ Hi Thái hậu (慈禧太后), Tây Thái hậu (西太后) hoặc Từ Hi Thái hoàng thái hậu (慈禧太皇太后), là đệ nhất sủng phi của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, sinh mẫu của Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế, dưỡng mẫu của Thanh Đức Tông Quang Tự Đế và là tổ mẫu trên danh nghĩa của Tuyên Thống Đế. Bà trải qua 5 đời Hoàng đế từ Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế đến Tuyên Thống Đế và trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính của triều đình nhà Thanh cùng với Từ An Thái hậu khi Đồng Trị Đế lên ngôi. Sau khi Đồng Trị Đế qua đời, Thanh Đức Tông Quang Tự Đế lên ngôi, bà lại tiếp tục nhiếp chính. Sau khi Quang Tự Đế qua đời, bà trở thành Thái hoàng thái hậu dưới thời Tuyên Thống Đế. Vào năm 1861, Hàm Phong Đế mất, di chiếu cho Cố mệnh Bát đại thần cùng nhiếp chính cho vua mới là Đồng Trị Đế còn nhỏ tuổi. Từ Hi Thái hậu đã cùng Từ An Thái hậu - dưới sự giúp đỡ của Cung Thân vương Dịch Hân - đã tạo nên chính biến phế trừ cả Tám đại thần nhằm đạt được quyền lợi chính trị trước mâu thuẫn gay gắt với Túc Thuận, người đứng đầu Tám vị đại thần, sử gọi là Chính biến Tân Dậu. Sau sự kiện này, Từ Hi Thái hậu và Từ An Thái hậu đồng nhiếp chính cho Tân Hoàng đế, trở thành 2 vị Hoàng thái hậu duy nhất của triều đại Thanh thực hiện [Thùy liêm thính chánh; 垂簾聽政].
Từ Hi Hoàng thái hậu 慈禧皇太后 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Đồng Trị Đế sinh mẫu | |||||||||||||
Nhiếp chính Đại Thanh | |||||||||||||
Nhiếp chính | 11 tháng 11, năm 1861 – 15 tháng 11, năm 1908 (47 năm, 4 ngày) (đồng vị với Từ An Thái hậu) | ||||||||||||
Quân chủ | Đồng Trị Đế Quang Tự Đế Tuyên Thống Đế | ||||||||||||
Hoàng thái hậu Đại Thanh | |||||||||||||
Tại vị | 18 tháng 7 năm 1861 - 21 tháng 10 năm 1908 (đồng vị với Từ An Thái hậu) | ||||||||||||
Đăng quang | 25 tháng 4 năm 1862 | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Khang Từ Hoàng thái hậu | ||||||||||||
Kế nhiệm | Long Dụ Hoàng thái hậu | ||||||||||||
Thái hoàng thái hậu Đại Thanh | |||||||||||||
Tại vị | 21 tháng 10 năm 1908 - 22 tháng 10 năm 1908 | ||||||||||||
Đăng quang | 21 tháng 10 năm 1908 | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Chiêu Thánh Thái hoàng thái hậu | ||||||||||||
Kế nhiệm | Thái hoàng thái hậu cuối cùng | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | (1833-10-10)10 tháng 10 năm 1833 Bắc Kinh, Đại Thanh | ||||||||||||
Mất | 15 tháng 11 năm 1908
( 75 tuổi) Nghi Loan điện, Trung Nam Hải, Bắc Kinh | ||||||||||||
An táng | 4 tháng 10 năm 1910 Định Đông Lăng (定东陵), Đông Thanh Mộ | ||||||||||||
Phối ngẫu | Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế | ||||||||||||
Hậu duệ | Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế Vinh Thọ Cố Luân Công chúa | ||||||||||||
| |||||||||||||
Hoàng tộc | Ái Tân Giác La | ||||||||||||
Thân phụ | Huệ Trưng | ||||||||||||
Thân mẫu | Phú Sát Cổn Đại | ||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Từ Hi Thái hậu | |||||||||||
"Từ Hi Thái hậu" trong tiếng Trung | |||||||||||
Tiếng Trung | 慈禧太后 | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||||||
Theo cách hiểu thông thường, Từ Hi Thái hậu đã nắm đại quyền triều đại nhà Thanh trong vòng 47 năm, từ năm 1861 tới tận khi qua đời. Nhưng thực tế, bà chỉ có nắm toàn quyền ở hai giai đoạn: từ năm 1881 sau cái chết của Từ An Thái hậu, cho đến năm 1889 khi Quang Tự Đế thân chính; và từ năm 1898 đến khi qua đời năm 1908, sau sự kiện Bách nhật Duy tân. Tuy vào năm 1889, Quang Tự Đế tuyên bố thân chính, nhưng Từ Hi Thái hậu vẫn nắm thế lực đằng sau, gọi là [Huấn chính; 訓政]. Như vậy, bà nắm quyền thực tế tầm 27 năm.
Sự kiện Bách nhật Duy tân của Quang Tự, là một sự kiện phát sinh do mâu thuẫn giữa Hoàng đế và Từ Hi Thái hậu trong vấn đề chính trị, và một trong những dự định của Quang Tự Đế là mật mưu cùng với Khang Hữu Vi để giam lỏng cùng ám sát Thái hậu, từ đó nắm được đại quyền trong tay. Sau khi Biến pháp thất bại, Quang Tự Đế bị giam lỏng, Từ Hi Thái hậu tiếp tục là nhà lãnh đạo tối cao, tiếp tục thực hiện [Huấn chính], và đây là khoảng thời gian đỉnh cao quyền lực nhất mà người đời sau biết về bà. Khi khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, liên quân 8 nước phương Tây tấn công Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu và hoàng tộc phải chạy tới Tây An. Năm 1901, sau khi Hòa ước Tân Sửu được ký kết, bà mới quay trở lại Bắc Kinh. Những năm cuối đời, Từ Hi Thái hậu nhận thấy thế nước quá suy yếu, nên cố gắng thực hiện nhiều cải cách nhất định ảnh hưởng đến nền chính trị Trung Quốc khi ấy, một trong những điều nổi tiếng nhất là việc giải phóng phụ nữ Trung Hoa khỏi tục bó chân[1].
Nhiều nhà sử học hiện đại ở Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa, người phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh, trong khi một số khác thì lại cho rằng các đối thủ của Thái hậu đã quá thành công trong việc quy tội bà về những vấn đề nằm ngoài khả năng kiểm soát của bà lúc đó. Đánh giá khách quan, Từ Hi không tàn nhẫn hơn hay kém những vị vua khác trên thế giới khi đó, nếu không muốn nói là đã ít nhiều thi hành cải cách trong những năm cuối đời, cho dù hành động này của bà có phần miễn cưỡng bởi tình thế khó khăn của triều Thanh vào lúc ấy[2].
Trong văn hóa đại chúng ở Trung Hoa đại lục, Từ Hi Thái hậu cùng với Võ Tắc Thiên thời Đường và Lã hậu thời Hán được xem là 3 người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa trong một thời gian dài, bị dân gian coi là những "gian hậu loạn triều" tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ giang sơn xã tắc.