Trung Quốc
quốc gia nằm ở khu vực Đông Á / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trung Quốc (giản thể: 中国; phồn thể: 中國; bính âm: Zhōngguó), quốc hiệu là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (giản thể: 中华人民共和国; phồn thể: 中華人民共和國; Hán-Việt: Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa Quốc; bính âm: Zhōnghuá Rénmín Gònghéguó), là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Á và là một trong hai quốc gia tỷ dân. Trung Quốc là quốc gia đơn đảng do Đảng Cộng sản nắm quyền, chính phủ trung ương đặt tại thủ đô Bắc Kinh.[12] Chính phủ Trung Quốc thi hành quyền tài phán tại 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc và 2 đặc khu hành chính là Hồng Kông và Ma Cao. Chính phủ Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với tất các vùng lãnh thổ nằm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân Quốc, tuyên bố đây là tỉnh thứ 23 dù không kiểm soát trên thực tế, chính sách này gây ra nhiều tranh cãi liên quan đến vị thế địa - chính trị Đài Loan.[13] Với 9.596.961 km², Trung Quốc có diện tích lục địa lớn thứ 4 trên thế giới[14] và là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ 3 hoặc 4 tùy theo phương pháp đo lường.[lower-alpha 7]
Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa |
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Vị trí của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên thế giới (xanh)
Lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền và kiểm soát trên thực tế.
| |
Tổng quan | |
Thủ đô | Bắc Kinh[lower-alpha 1] 39°55′B 116°23′Đ |
Thành phố lớn nhất | Thượng Hải |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Trung Quốc phổ thông[lower-alpha 2] |
• Ngôn ngữ địa phương | |
Văn tự chính thức | Chữ Hán giản thể[lower-alpha 3] |
Sắc tộc (2020)[2] | |
Tôn giáo chính (2020)[3] | |
Tên dân cư | Người Trung Quốc |
Chính trị | |
Chính phủ | Đơn nhất Marx-Lenin đơn đảng xã hội chủ nghĩa cộng hòa[4] |
Tập Cận Bình | |
Lý Cường | |
Triệu Lạc Tế | |
Vương Hỗ Ninh | |
Thái Kỳ | |
Lý Hi | |
Đinh Tiết Tường | |
Lập pháp | Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc |
Lịch sử | |
Hình thành | |
k. 2070 TCN | |
221 TCN | |
1 tháng 1 năm 1912 | |
• Tuyên ngôn thành lập nước Cộng hòa Nhân dân | 1 tháng 10 năm 1949 |
20 tháng 9 năm 1954 | |
4 tháng 12 năm 1982 | |
20 tháng 12 năm 1999 | |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 9.596.961 km2[lower-alpha 4] (hạng 3 hay 4) 3.705.407 mi2 |
• Mặt nước (%) | 2,8 |
Dân số | |
• Điều tra 2023 | 1.411.778.724[7] (hạng 2) |
• Mật độ | 145 [8]/km2 (hạng 83) 375,5/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2024 |
• Tổng số | 35,29 nghìn tỷ USD[9] (hạng 1) |
25.015 USD[9] (hạng 73) | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2024 |
• Tổng số | 18,533 nghìn tỷ USD[9] (hạng 2) |
• Bình quân đầu người | 13.136 USD[9] (hạng 68) |
Đơn vị tiền tệ | Nhân dân tệ (nguyên; ¥)[lower-alpha 5] (CNY) |
Thông tin khác | |
Gini? (2020) | 37,1[10] trung bình |
HDI? (2022) | 0,788[11] cao · hạng 75 |
Múi giờ | UTC+8 (Thời gian chuẩn Trung Quốc) |
Cách ghi ngày tháng | |
Giao thông bên | phải[lower-alpha 6] |
Mã điện thoại | +86 |
Mã ISO 3166 | CN |
Tên miền Internet | |
Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ lưu vực sông Hoàng Hà (bình nguyên Hoa Bắc) và Trường Giang (đồng bằng Trường Giang). Với hơn 5.000 năm, nền văn minh Trung Hoa phát triển mạnh, đặc trưng bởi hệ thống tư tưởng, triết học Nho giáo, Đạo giáo, Âm dương ngũ hành,... có ảnh hưởng lớn với các quốc gia láng giềng, các thành tựu khoa học kỹ thuật (phát minh ra giấy, la bàn, thuốc súng, địa chấn kế, kỹ thuật in ấn,...), hoạt động giao thương xuyên châu Á (con đường tơ lụa) và những đô thị có quy mô dân số và trình độ kiến trúc hàng đầu thế giới vào thời trung cổ. Với hơn 5.000 năm lịch sử, Trung Quốc là một trong 4 nền văn minh cổ đại lớn của thế giới (cùng với Lưỡng Hà, Ai Cập và Ấn Độ) và là nền văn minh duy nhất trong số đó còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày nay.[15][16][17][18]
Hệ thống chính trị của Trung Quốc thời kỳ phong kiến dựa trên các triều đại quân chủ chuyên chế kế tập, khởi đầu là nhà Hạ khoảng năm 2100 TCN. Sang đến thời cận đại, nhà Thanh - triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc dần suy yếu, quốc gia này bị các nước đế quốc xâu xé sau chiến tranh Nha Phiến và trở thành một vùng lãnh thổ bán thuộc địa trong vòng 100 năm. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ nhà Thanh vào năm 1912 sau Cách mạng Tân Hợi và nắm quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bại trận và đầu hàng Đồng Minh trong chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Quốc quay trở lại với cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng. Cuối cùng, Đảng Cộng sản đánh bại Quốc Dân Đảng và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949 trong khi Quốc Dân Đảng di dời chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đến đảo Đài Loan.
Sau khi thành lập, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trải qua nhiều chính sách lớn như Đại Cách mạng Văn hóa, Thổ cải, Tiêu diệt chim sẻ, Đại nhảy vọt, phát triển các đơn vị Hồng vệ binh,[19][20]... nhiều chính sách thất bại dẫn đến hậu quả là nạn đói, xã hội bất ổn, kinh tế tụt hậu, nhiều di sản bị phá hủy.[21][22][23] Sau khi tiến hành cải cách kinh tế theo hướng mở cửa vào năm 1978, nền kinh kế Trung Quốc với quy mô dân số khổng lồ đã tăng trưởng nhanh chóng.[24][25]
Trung Quốc là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có quân đội thường trực với số lượng lớn nhất thế giới cùng ngân sách quốc phòng lớn thứ 2. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hợp Quốc từ năm 1971 sau khi thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong vị thế thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Trung Quốc cũng là thành viên của các tổ chức quốc tế như WTO, APEC, BRICS, SCO và G20,... Trung Quốc là đại cường quốc và siêu cường tiềm năng.[26][27] Trung Quốc có mục tiêu cạnh tranh với Hoa Kỳ trên mọi mặt; thậm chí đặt tham vọng sẽ thay thế Hoa Kỳ trong tương lai.[28][29][30][31] Tuy nhiên, hiện nay Trung Quốc vẫn là một nước đang phát triển.[32][33]
Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức như ô nhiễm môi trường[34], chênh lệch thu nhập[35], chênh lệch giới tính do hậu quả của chính sách một con[36], tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng[37] cùng vấn đề nhân quyền[38][39], phong trào phản kháng ở Tân Cương, Tây Tạng, và các lệnh cấm vận của Hoa Kỳ. Đặc biệt, già hóa dân số do suy giảm sinh đẻ đang trở thành nguy cơ lớn khiến Trung Quốc trì trệ trong tương lai, vì vậy nước này đã ban hành một loạt các chính sách như: tặng tiền và tăng ngày nghỉ nhằm khuyến khích sinh con[40][41], cấm tuyên truyền, cổ vũ cho đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính để bảo vệ văn hóa hôn nhân – gia đình không bị suy thoái[42]