Chúng tôi là kẻ ngu-dại vì cớ Đấng Christ, nhưng anh em được khôn-ngoan trong Đấng Christ; chúng tôi yếu-đuối, anh em mạnh-mẽ; anh em quí-trọng, chúng tôi khinh-hèn.
Con Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Jêsus-Christ, mà chúng tôi, tức là tôi với Sin-vanh và Ti-mô-thê, đã giảng ra trong anh em, chẳng phải là vừa phải vừa chăng đâu; nhưng trong Ngài chỉ có phải mà thôi.
Duy anh em phải ăn-ở một cách xứng-đáng với đạo Tin-lành của Đấng Christ, để hoặc khi đến thăm anh em, hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết rằng anh em một lòng đứng vững, đồng tâm chống-cự vì đức-tin của đạo Tin-lành, phàm sự chẳng để cho kẻ thù-nghịch ngăm-dọa mình:
nhưng bây giờ Đức Chúa Trời đã nhờ sự chết của Con Ngài chịu lấy trong thân-thể của xác-thịt mà khiến anh em hòa-thuận, đặng làm cho anh em đứng trước mặt Ngài cách thánh-sạch không vết, không chỗ trách được;
Bởi vậy, chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời không thôi về sự anh em tiếp-nhận lời của Đức Chúa Trời mà chúng tôi đã truyền cho, không coi như lời của loài người, bèn coi như lời của Đức Chúa Trời, vì thật là lời Đức Chúa Trời, cũng hành-động trong anh em có lòng tin.
mà bây giờ mới bày ra bởi sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus-Christ, Cứu-Chúa chúng ta, Ngài đã hủy-phá sự chết, dùng Tin-lành phô-bày sự sống và sự không hề chết ra cho rõ-ràng.
Con là sự chói-sáng của sự vinh-hiển Đức Chúa Trời và hình-bóng của bổn-thể Ngài, lấy lời có quyền-phép Ngài nâng-đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn-nghiêm ở trong nơi rất cao,
Quyền-phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi đều thuộc về sự sống và sự tin-kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh-hiển và nhơn-đức mà gọi chúng ta,
Các anh em đã làm chứng về sự nhơn-từ của anh ở trước mặt Hội-thánh. Anh sẽ giúp-đỡ sự đi đường cho các anh em một cách xứng-đáng với Đức Chúa Trời thì tốt lắm.
Nầy, Chúa ngự đến với muôn-vàn thánh, đặng phán-xét mọi người, đặng trách hết thảy những người không tin-kính về mọi việc không tin-kính họ đã phạm, cùng mọi lời sỉ-hổ mà những kẻ có tội không tin-kính đó đã nói nghịch cùng Ngài.
Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh-Linh phán cùng các Hội-thánh: Kẻ nào thắng, ta sẽ ban cho ma-na đương giấu-kín; và ta sẽ cho nó hòn sỏi trắng, trên đó có viết một tên mới, ngoài kẻ nhận lấy không ai biết đến.
Hãy cẩn thận với những kẻ mang cho chúng ta tư tưởng sai lạc về ân điển Chúa Giêsu Christ, xem xét họ chống lại ý muốn Đức Chúa Trời ra sao. Chúng chẳng để tâm đến tình yêu thương, bà góa con côi, người bị phu tù, xiếng xích hay đã được tự do, hay còn đói khát.
et mortuus est Dei Filius; prorsus credibile est, quia ineptum est: et sepultus, resurrexit; certum est, quia impossibile.
và Con Đức Chúa Trời chịu chết; điều có thể tin được hoàn toàn vì Ngài đã nhập thể: chịu chôn và Ngài sống lại, điều này cũng chắc chắn nhờ tính bất khả đó.
Stille Nacht! Heilige Nacht! Alles schläft; einsam wacht Nur das traute heilige Paar. Holder Knab’ im lockigten Haar, Schlafe in himmlischer Ruh! Schlafe in himmlischer Ruh!
Đêm yên lặng! Đêm thánh này! Vắng vẻ thay! Sáng láng thay! Chung quanh chốn Ma-ri đang ngắm con mình, Con trai thánh rất tươi vui, rất an bình, Đương ngơi dưới khung trời vắng, Êm đềm giữa đêm yên lặng. (Đêm Thánh Vô Cùng)
Nearer, my God, to Thee, nearer to Thee! E'en though it be a cross that raiseth me; Still all my song would be nearer, my God, to Thee, Nearer, my God, to Thee, nearer to Thee!
Chúa ôi, cho tôi càng gần, Gần nơi Chúa hơn; Dẫu phải mang cây thập tự, Càng gần Chúa hơn; Trong lúc đau thương sầu u, Tôi vẫn luôn xin Jê-sus Chúa ôi, cho tôi gần Ngài, Càng gần Chúa nay.[4]
When peace like a river, attendeth my way, When sorrows like sea billows roll; Whatever my lot, Thou hast taught me to know It is well, it is well, with my soul.
Khi tôi được bình tịnh dường sông chảy theo đường đời, Hoặc lắm thống bi như ba đào sôi, Hoàn cảnh dẫu ra sao, Christ khuyên cứ nói sắt đinh: “Linh hồn ôi, ta yên ninh, thật yên ninh!”[7]
O store Gud, när jag den värld beskådar, Som du har skapat med ditt allmaktsord, Hur där din visdom leder livets trådar, Och alla väsen mättas vid ditt bord.
Khi xem muôn vật do tay Thiên Chúa sáng tạo chúng; Cứu Chúa của tôi, lòng cảm xúc bao kinh sợ. Tôi xem sao trời, tôi nghe muôn tiếng sấm rền nổ, khắp khắp đó đây, quyền của Chúa ôi vô bờ.[8]
Precious Lord, take my hand Lead me on, let me stand I am tired, I am weak, I am worn Through the storm, through the night Lead me on to the light Take my hand precious Lord, lead me home
Nhìn dòng đời dần dần trôi, Cứu Chúa ôi! Xin mau gần con, con nao sờn lòng sầu vương yếu đuối luôn Khi muôn hướng bão táp luôn bóng tối buông mây che đời con, xin đi cùng con, và không bỏ con trong mỏi mòn.[10]
When I am down, and, oh my soul, so weary When troubles come and my heart burdened be Then I am still and wait here in the silence Until you come and sit awhile with me
Lòng chợt xao xuyến, Khi sóng đau thương sôi bùng lên. Hoạn nạn theo đến Lòng vấn vương bao ưu phiền. Nghẹn ngào trong đêm, Cố gắng không nguôi được nỗi niềm, Rồi Chúa đến bên Đã khiến tâm tôi nghỉ yên.[11]
Ví như người Âu-châu đều có cái quan-niệm nhân-sinh theo cái tư-tưởng của tôn-giáo Cơ-đốc. Dù là cựu-giáo hay tân-giáo mặc lòng, ai cũng tin rằng ở trên trời có một đấng tối cao làm chủ-tể cả vũ-trụ và tạo-tác ra muôn vật.
But every sovereign, before Christianity, had the power of teaching and ordaining teachers; and therefore Christianity gave them no new right, but only directed them in the way of teaching truth; and consequently they needed no imposition of hands (besides that which is done in baptism) to authorize them to exercise any part of the pastoral function, as namely, to baptize and consecrate.
Nhưng mọi thẩm quyền trước Cơ Đốc giáo đều có năng lực giảng dạy và truyền chức cho thầy dạy; nên Cơ Đốc giáo không trao thêm quyền mới nào, mà chỉ hướng dẫn cách giảng dạy chân lý; do đó, họ không cần phải đặt tay (ngoài việc thực hiện trong phép báp-têm) để ủy quyền thực hiện bất kỳ phần nào trong chức năng mục vụ, cụ thể là báp-têm và thánh hiến.
As men, we have God for our King, and are under the law of reason: as Christians, we have Jesus the Messiah for our King, and are under the law revealed by him in the gospel.
Là người, chúng ta có Đức Chúa Trời làm Vua của mình và tuân theo luật của lý trí: là Cơ Đốc nhân, chúng ta có Chúa Giêsu, Đấng Messiah làm Vua của mình, và tuân theo luật được Ngài mặc khải trong phúc âm.
If not, the time will come when Christianity will prevail over all, and cover the earth. Let us stand a little, and survey (the Third thing which was proposed) this strange sight, a Christian World.
Nếu không phải thế thì khi kỳ hạn đến Cơ Đốc giáo sẽ toàn thắng và bao phủ khắp đất. Hãy lặng yên trong giây lát, và ngắm xem điều kỳ diệu này, một Thế giới Cơ Đốc.
Now I will avow, that I then believed, and now believe, that those general Principles of Christianity, are as eternal and immutable, as the Existence and Attributes of God: and that those Principles of Liberty, are as unalterable as human Nature and our terrestrial, mundane System.[13]
Giờ tôi xin tuyên bố rằng khi đó tôi đã tin, và hiện tại tôi vẫn tin, rằng những nguyên tắc chung của Cơ Đốc giáo là vĩnh cửu và bất biến, như tự tồn tại và thuộc tính của Thiên Chúa: và rằng những nguyên tắc tự do ấy không thể nào thay đổi giống như bản chất con người và hệ thống thế tục của chúng ta.
It would have been very like a Christian, and a marvellously good Christian, too, if Oliver had prayed for the people who fed and took care of him. But he hadn't, because nobody had taught him.
Lẽ ra Ôlivơ đã rất giống một người theo Thiên chúa giáo và một người theo Thiên chúa giáo hết sức tốt nữa kia, nếu nó đã cầu nguyện cho những người nuôi nấng và trông nom nó. Nhưng nó đã không làm thế, bởi vì không có ai dạy nó cả.[14]
I say, the acknowledgment of God in Christ Accepted by thy reason, solves for thee All questions in the earth and out of it, And has so far advanced thee to be wise.
Ta nói, nhận biết Đức Chúa Trời trong Đấng Christ Được lý trí chấp nhận, khai thông tâm trí Mọi câu hỏi trên đất hay cao hơn thế Đưa anh hướng tới thành người khôn ngoan.
Indeed it is evident that Christianity, however degraded and distorted by cruelty and intolerance, must always exert a modifying influence on men's passions, and protect them from the more violent forms of fanatical fever, as we are protected from smallpox by vaccination.[15]
Rõ thật là Cơ Đốc giáo dù bị lòng ác độc bất dung bóp méo và suy giảm nhưng vẫn luôn phải tác động điều chỉnh vui thú của con người và gìn giữ họ khỏi các hình thức cuồng loạn hơn, giống như chúng ta nhờ vắc xin mà phòng được đậu mùa.
Es ist wahr: Europa ist kein Christenklub. Aber wahr ist auch: Europa ist ein Grundwerteklub. Hier bei uns gelten Menschen- und Bürgerrechte. Diese Menschen- und Bürgerrechte beruhen bei uns ganz wesentlich auf dem Menschenbild des Christentums.[16]
Đây là sự thật: Châu Âu không phải là câu lạc bộ Cơ Đốc. Nhưng điều này cũng đúng: Châu Âu là câu lạc bộ của những giá trị cơ bản. Nhân quyền và dân quyền được áp dụng tại đây. Đối với chúng ta, quyền con người và quyền công dân chủ yếu dựa trên quan điểm Cơ Đốc giáo về nhân loại.
Ich fürchte nicht die Stärke des Islam, sondern die Schwäche des Abendlandes. Das Christentum hat teilweise schon abgedankt. Es hat keine verpflichtende Sittenlehre, keine Dogmen mehr.[17]
Tôi không sợ sức mạnh Hồi giáo mà sợ phương Tây yếu kém. Cơ Đốc giáo đã phần nào thoái xuống. Nó không còn có bất kỳ tín lý hay đạo đức nào mang tính bắt buộc nữa.
Quamobrem, cum nos, Constantinus ac Licinius Augusti, felicibus auspiciis Mediolanum venissemus, et quaecumque ad commodum utilitatemque Reipublicae pertinebant, sollicite inquireremus; inter caetera quae universis multifariam profutura judicavimus; seu potius prae reliquis omnibus haec constituenda esse censuimus, quibus divini Numinis cultus ac veneratio contineretur: hoc est, ut Christianis et reliquis omnibus libera facultas a nobis tribuatur quamcumque voluerint religionem consectandi: quo scilicet quidquid illud est divinum ac coeleste Numen, nobis et universis qui sub imperio nostro degunt, propitium esse possit.
Vì vậy, khi chúng ta, Constantinus và Licinius Augustus, hoan hỉ hội kiến gần Mediolanum, cùng xem xét mọi thứ liên quan đến an ninh và lợi ích đại chúng, thì trong số những điều được đánh giá là tốt lành cho đa số; chúng ta quyết định rằng có những thứ cần phải đề cao lên, trong đó phải bao gồm sự thờ phượng và tôn kính Đức Chúa Trời thiêng liêng: nghĩa là, Cơ Đốc nhân và những dân khác đều có toàn quyền tự do theo bất kỳ tôn giáo nào mình muốn, và họ được sống thuận lợi dưới sự cai trị của chúng ta.
Siate, Cristiani, a muovervi più gravi: non siate come penna ad ogne vento, e non crediate ch'ogne acqua vi lavi.
Hỡi những người Kitô giáo, hãy cẩn trọng mỗi khi quyết định, Đừng vội bay đi như một lông chim trước gió, Đừng tưởng rằng nước có thể rửa sạch được tất cả![19]
2005, Gianni Vattimo, Il futuro della religione: solidarietà, carità, ironia
Come la letteratura occidentale non sarebbe pensabile senza i poemi omerici, senza Shakespeare, senza Dante, così la nostra cultura nel suo più ampio insieme non avrebbe senso se volessimo tagliarne via il cristianesimo.[20]
Cũng như văn học phương Tây sẽ không thể tồn tại nếu không có sử thi Homeros, không có Shakespeare, không có Dante, nền văn hóa chúng ta nói chung sẽ không còn ý nghĩa nếu muốn loại trừ Cơ Đốc giáo ra khỏi nó.
↑ Tuyển tập tác phẩm William Shakespeare. Tuấn Đô dịch vở Người lái buôn thành Vơnidơ. Hà Nội: Nhà xuất bản Sân khấu; Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây. 2006. p.1253.