From Wikipedia, the free encyclopedia
Xạ thủ bắn tỉa (tiếng Anh: sniper) là người sử dụng súng bắn tỉa từ vị trí ẩn nấp, bắn vào mục tiêu thường là từ khoảng cách xa hơn khoảng cách chiến đấu của bộ binh thông thường. Trong quân đội, đó thường là nhóm lính bộ binh được huấn luyện đặc biệt về kỹ năng ẩn nấp và ngắm bắn.
Từ "xạ thủ bắn tỉa" bắt nguồn từ năm 1824 trong những người sử dụng súng trường. Từ tiếng Anh là "sniper" xuất hiện ở vùng Ấn Độ thuộc Anh có nghĩa là bắn từ vị trí được ẩn náu, có thể là từ hoạt động săn chim, chim dẽ giun (snipe) là một động vật rất khó phát hiện, tiếp cận hay bắn hạ chúng. Những người chuyên đi săn chim này sau đó được gọi là các "sniper" (xạ thủ bắn tỉa) bởi kỹ năng yêu cầu trong bắn súng, ngụy trang và di chuyển.
Mỗi quốc gia với có lý luận quân sự khác nhau trong việc sử dụng xạ thủ bắn tỉa, quy định đội hình và chiến thuật. Về cơ bản, mục đích của xạ thủ trên chiến trường là tiêu hao năng lực chiến đấu của đối phương bằng việc tiêu diệt những mục tiêu có giá trị, nhân vật quan trọng, thường là sĩ quan.
Hồng quân Liên Xô là đội quân tiên phong sử dụng bắn tỉa ở quy mô lớn và coi đây là một lực lượng chuyên biệt. Khi Thế chiến thứ 2 nổ ra, có tới 60.000 lính bắn tỉa đã đào tạo trong biên chế của Hồng quân Liên Xô, nhiều hơn số tay súng bắn tỉa của các nước tham chiến khác cộng lại, kết quả là Liên Xô cũng là nước có nhiều xạ thủ bắn tỉa có thành tích cao nhất lịch sử. Những học thuyết quân sự bắt nguồn từ đội quân này sử dụng các xạ thủ ở mức tập trung, gọi là các tiểu đội bắn tỉa. Các đơn vị này có nhiệm vụ yểm trợ các đơn vị bộ binh tiêu diệt các mục tiêu ở cự ly xa hoặc nguy hiểm (ví dụ như bắn hạ xạ thủ súng máy đối phương) bởi bộ binh thông thường khó có thể tấn công chính xác ở khoảng cách xa (trên 400 mét) với các loại súng thông thường.
Trong Thế chiến thứ 2, Liên Xô đã đào tạo được 428.335 lính bắn tỉa, trong đó 9.534 người có trình độ cao trong nghệ thuật bắn tỉa. Có 261 xạ thủ bắn tỉa nam và nữ của Liên Xô đã tiêu diệt được từ 50 tên địch trở lên và được trao danh hiệu bắn tỉa xuất sắc. Cũng trong thế chiến 2, Hồng quân có 800.000 quân nhân là nữ, trong số đó có 2.484 là nữ xạ thủ bắn tỉa, và đã có 500 xạ thủ nữ sống sót qua chiến tranh.
Xạ thủ bắn tỉa trong quân đội thường hình thành nhóm hai người, một xạ thủ và một trợ thủ. Hai thành viên này có nhiệm vụ tùy theo kỹ năng, nhưng thông thường là sẽ đổi vị trí cho nhau thường xuyên để tránh mỏi mắt. Trợ thủ sử dụng ống nhòm để giúp xạ thủ đánh giá, phân biệt hoặc xác định mục tiêu. Nhiệm vụ chủ yếu của xạ thủ là trinh sát, giám sát, chống bắn tỉa, tiêu diệt chỉ huy đối phương, lựa chọn mục tiêu có giá trị và phá hoại khí tài của đối phương. Nhiệm vụ phá hoại đòi hỏi sử dụng loại đạn cỡ lớn, ví dụ 12,7 mm. Gần đây, quân đội Mỹ và Anh sử dụng xạ thủ bắn tỉa có hiệu quả trong chiến dịch tấn công Iraq, hỗ trợ hỏa lực cho bộ binh, đặc biệt là ở trong thành phố.
Không chỉ cần học cách ngắm bắn cho chính xác, các xạ thủ bắn tỉa còn phải học các biện pháp ngụy trang hoặc ẩn nấp, bởi nếu bị phát hiện ra vị trí thì xạ thủ sẽ dễ bị tấn công bởi hỏa lực đối phương.
Xét về vũ khí, khẩu Mosin Nagant của Nga đến nay vẫn giữ kỷ lục là khẩu súng bắn tỉa đã tiêu diệt nhiều địch nhất trong lịch sử (dễ hiểu vì nó được các xạ thủ Liên Xô sử dụng rộng rãi). Đồng thời, nó cũng là khẩu súng bắn tỉa có thời gian phục vụ lâu dài nhất: ra đời từ những năm 1890 và đã bị quân đội Liên Xô thay thế từ đầu thập niên 1960, song với uy lực mạnh và độ tin cậy cao, nó vẫn tiếp tục được sử dụng ở nhiều nước khác cho tới giữa thế kỷ 21.
Trong Cuộc chiến Iraq năm 2003, việc bắn tỉa đã được quân đội Mỹ và đồng minh thực hiện ở khoảng cách rất gần, đa phần là 200–400 m. Đáng lưu ý, ngày 3 tháng 4 năm 2004, đội xạ thủ Matt và Sam Hughes của Hải quân Hoàng gia Anh sử dụng súng trường bắn tỉa L96 đã tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 860 m bằng cách bắn lệch về trái mục tiêu 17 m để viên đạn bay vòng theo hướng gió.
Các lực lượng cảnh sát thường sử dụng xạ thủ bắn tỉa trong các cuộc giải cứu con tin, khi không còn giải pháp nào khác và sinh mạng con tin bị đe dọa trực tiếp, khẩn cấp. Các xạ thủ loại này thường không cần bắn vô hiệu hóa mà bắn tiêu diệt, mặc dù xác suất thành công không phải là hoàn toàn. Khoảng cách tác chiến của xạ thủ bắn tỉa trong lực lượng cảnh sát thường ngắn hơn so với trong quân đội rất nhiều, dưới 200 m. Lưu ý rằng, một số lực lượng cảnh sát không tuân thủ Công ước Hague về cấm sử dụng đạn có sức công phá lớn trong chiến tranh, họ đôi khi sử dụng đầu đạn mềm hoặc đạn đầu có lỗ.
Nhu cầu về đào tạo xạ thủ bắn tỉa trong lực lượng cảnh sát trở thành cấp thiết từ sau vụ khủng bố Munich năm 1972. Trong sự kiện đó, cảnh sát không có vũ khí bắn tỉa thích hợp để đối phó với khủng hoảng con tin, kết quả là tất cả con tin người Israel đã bị giết. Sử dụng xạ thủ bắn tỉa của quân đội Đức khi đó là không thể bởi hiến pháp không cho phép quân đội tham gia các sự vụ trong nước. Tình huống này đã đưa đến việc thành lập đơn vị chống khủng bố GSG-9 của cảnh sát Đức.
Trong một vụ việc năm 2007, xạ thụ bắn tỉa đội SWAT Columbus, bang Ohio đã ngăn chặn vụ tự tử bằng cách bắn vào khẩu súng trên tay đối tượng, tước vũ khí mà không làm tổn thương đối tượng. Mặc dù xử lý tình huống thành công, đoạn băng video quay lại cho thấy người đàn ông ý định tự tử đã thoát được trong gang tấc những mảnh kim loại của viên đạn và của khẩu súng. Các xạ thủ từng thử nghiệm kỹ thuật này bằng cách bắn vào khẩu súng đã lên đạn không phải luôn thành công. Khẩu súng bị bắn có thể phát hỏa về bất kỳ hướng nào và thậm chí là khẩu súng đó bị bắn trúng cũng chưa chắc đã mất khả năng phát nổ. Hơn nữa việc bắn viên đạn vào đối tượng có thể gây chết người, và việc bắn đó kể cả để ngăn chặn tự tử cũng không hợp pháp ở một số nước.
Trong thời bình, xạ thủ bắn tỉa của lực lượng cảnh sát ví dụ nhóm phản ứng tình huống nguy hiểm của FBI (còn gọi là đội giải cứu con tin) phục vụ lâu hơn, được huấn luyện kỹ hơn và có nhiều kinh nghiệm tác chiến hơn là xạ thủ quân đội.
Có những trường hợp đặc biệt về sử dụng bắn tỉa là để kích động bạo lực của đám đông, như trường hợp lính bắn tỉa bắn vào cuộc biểu tình Euromaidan 2014 ở Kiev, Ukraina.
Ban đầu sự việc được phát hiện ở cuộc trò chuyện qua điện thoại bị rò rỉ giữa Cao ủy đối ngoại Liên minh châu Âu Catherine Ashton và Ngoại trưởng Estonia Urmas Paet, tiết lộ là "các tay súng bắn tỉa không phải là người của Yanukovich mà là ai đó thuộc liên minh mới" [15][16].
Các điều tra sau này xác định tay súng bắn tỉa người Gruzia, gồm Alexander Revazishvili và Koba Nergadze, được liên minh mới thuê để bắn vào cả hai phía người biểu tình và cảnh sát của chính quyền Yanukovych lúc đó [17][18][19]. Tháng 2/2014 lính bắn tỉa đã làm hàng chục người chết, hoàn thành nhiệm vụ kích động bạo lực cho cuộc biểu tình lan rộng. Nó dẫn đến lật đổ chính quyền Yanukovych, và quy tội cho ông này trách nhiệm về những cái chết trong cuộc biểu tình [20].
Lựa chọn đích bắn phụ thuộc vào xạ thủ. Xạ thủ bắn tỉa quân đội thường tác chiến ở khoảng cách trên 300 m sẽ bắn vào phần thân của đối phương chủ yếu là ngực, nơi có các cơ quan nội tạng quan trọng và là phần rộng nhất của cơ thể. Xạ thủ cảnh sát thường tác chiến ở khoảng cách gần hơn rất nhiều có thể lựa chọn bắn vào đầu để đảm bảo triệt hạ đối tượng. Trong những trường hợp phải bắn chết tức thì, xạ thủ sẽ nhằm vào vị trí tiểu não – vùng não trong hộp sọ điểu khiển cử động. Một số nhà nghiên cứu đường đạn và thần kinh học cho rằng làm tổn thương tủy sống ở đốt sống cổ thứ hai sẽ ngăn chặn có hiệu quả cử động có điều khiển, tuy vậy tranh luận này vẫn chưa ngã ngũ và vẫn ở giai đoạn học thuật.
Để thực hiện nhiệm vụ vãn hồi trật tự, thu thập tin tức và gây áp lực đối phương, xạ thủ hoặc nhóm xạ thủ sẽ ẩn nấp tại các vị trí an toàn trên cao. Họ sử dụng ống nhòm để xác định mục tiêu và phương tiện liên lạc để chuyển thông tin.
Xạ thủ sử dụng các biện pháp ngụy trang, các góc tiếp cận bất thường và di chuyển chậm, đều đặn để tránh bị tấn công trả lại. Nếu không bị nhìn trực tiếp, một số xạ thủ có thể bắn ở khoảng cách dưới 90 m mà không bị phát hiện trong khi đối phương vẫn đang tìm kiếm họ.
Xạ thủ quân sự sẽ ngụy trang tìm vị trí cho phép tầm nhìn rộng nhất đến mục tiêu. Thông thường khoảng cách là từ 300–1000 m, thích hợp nhất là 600 m. Trái với mọi người nghĩ, anh ta sẽ không chọn vị trí cao nhất. Lựa chọn này không phải vì càng cao thì đường đạn càng cong và khó tính toán mà vì đó là vị trí dễ bị để ý nhất. Do đó, xạ thủ phải phải chọn vị trí có tầm nhìn tốt nhất và bắn không bị phát hiện. Vị trí này nên ở sau một vật thể đặc hoặc bắn qua vật thể đó. Thử nghiệm của quân đội Anh cho thấy viên đạn bay qua một vật thể đặc sẽ tạo ra âm thanh như là nó được bắn từ ra đó. Sóng âm của viên đạn nẩy trở lại từ vật thể rắn và tạo ra tiếng súng, vật thể rắn ở đây có thể là một ngôi nhà hoặc một cái cây lớn.
Xạ thủ của lực lượng cảnh sát có cách lựa chọn vị trí khác. Do không cần quan tâm đến ngụy trang và ẩn náu, xạ thủ này chọn những vị trí có tầm quan sát rõ nhất mục tiêu và hiện trường để bắn vô hiệu hóa đối tượng. Họ thường chọn vị trí gần hơn so với trong quân sự, vị trí bắn cách mục tiêu trung bình 83 m, đảm bảo viên đạn đi rất chính xác và liên lạc nhanh chóng với chỉ huy. Vì thế vị trí có góc quan sát rộng và ở trên cao là vị trí ưa thích. Vị trí của họ thậm chí có thể bị bắn trả tức thì.
Xạ thủ có thể bắn mục tiêu sống hoặc thiết bị, nhưng đa phần, mục tiêu của họ là người như sĩ quan hoặc nhân viên kỹ thuật (điện đài viên...) để gây gián đoạn hoạt động của đối phương ở mức độ cao nhất. Những mục tiêu khác bao gồm những gì là mối đe dọa với họ như người điều khiển chó, đối tượng thường tìm kiếm xạ thủ. Tuy vậy, nguyên tắc hoạt động và công thức để sinh tồn đó là không bao giờ bắn nếu không cần thiết bởi phát bắn sẽ tiết lộ anh ta ở đâu và khiến đối phương đáp trả.
Xạ thủ bắn tỉa xác định mục tiêu là sĩ quan dựa trên bề ngoài và hành vi ví dụ quân phục, nói với nhân viên điện đàm, ngồi ở vị trí khách trên xe, có nhân viên trợ lý hoặc phục vụ, nói chuyện và di chuyển vị trí thường xuyên, v.v. Nếu có thể, xạ thủ sẽ bắn theo thứ tự cấp bậc, nếu không được, anh ta sẽ bắn sao cho gián đoạn việc liên lạc.
Trong chiến tranh hiện đại, phần lớn sát thương và phá hủy do các vũ khí cần nhiều người vận hành như pháo, tên lửa, máy bay, xe tăng, v.v. trinh sát là phương cách sử dụng xạ thủ bắn tỉa hiệu quả nhất. Với các kỹ năng đột nhập, tiếp cận mục tiêu, sử dụng thiết bị quan sát từ xa, xác định khoảng cách, v.v. xạ thủ bắn tỉa là có thể tiếp cận các mục tiêu quan trọng.
Với khẩu súng bắn đạn 12.7 mm, xạ thủ có thể phá hủy máy bay đang đỗ, bắn nổ đạn dược, thiết bị quang học đắt tiền, hoặc các thiết bị radar. Phương pháp tác chiến này đôi khi cần loại vũ khí chuyên dụng phá hủy thiết bị, chúng có hiệu quả như sử dụng thuốc nổ để phá hoại.
Nhằm vô hiệu hóa lực lượng đối phương, nhiều trường hợp xạ thủ hành động theo một công thức có chủ ý. Trong cuộc Cách mạng Cuba, lực lượng cách mạng của phong trào 26 tháng 7 luôn tiêu diệt kẻ đi đầu trong các nhóm quân của chính quyền Bastia. Nhận ra điều này, không ai dám đi đầu nữa bởi điều đó là tự sát. Cách làm này giảm tinh thần của quân đội khá hiệu quả khi họ truy tìm những người khởi nghĩa ở vùng núi. Một cách khác là luôn bắn vào người đi thứ hai, đưa đến hiệu ứng tâm lý là không ai muốn đi theo "người dẫn đầu" nữa.
Khẩu hiệu "một viên, một mạng" (one shot, one kill) đôi khi được hiểu không đúng và thần tượng hóa huyền thoại xạ thủ bắn tỉa. Khẩu hiệu này thể hiện chiến thuật và triết lý hiệu quả, bí mật của họ. Nghĩa chính xác của khẩu hiệu trên có thể hiểu như sau:
Dù khẩu hiệu trên phản ánh đúng thực tế hay không thì nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn học, báo chí và phim ảnh.
Trong chiến tranh hiện đại, có bắn tỉa thì có chống bắn tỉa với nhiều kỹ thuật được phát triển. Đương nhiên là không thể phòng chống và triệt tiêu hoàn toàn được các xạ thủ bắn tỉa, nhưng có các biện pháp để cản trở họ.
Nguy cơ cho hệ thống chỉ huy sẽ giảm được bằng cách bỏ dấu hiệu chỉ huy. Ngày nay, việc chào cấp chỉ huy và mang quân hàm không được áp dụng trên chiến trường. Tuy vậy các sĩ quan vẫn có thể bị lộ thân phận qua các hành động như xem bản đồ và sử dụng điện đàm.
Các xạ thủ cũng được sử dụng để chống xạ thủ đối phương. Bên cạnh việc quanh sát trực tiếp, lực lượng bảo vệ có thể sử dụng các kỹ thuật khác như tính toán đường đạn bằng phương pháp tam giác. Cách làm này có thể thực hiện bằng kỹ thuật tính toán bằng tay hoặc trợ giúp của radar. Một khi vị trí của xạ thủ bắn tỉa được xác định, bên bảo vệ có thể khống chế anh ta.
Càng bắn nhiều, cơ hội bị phát hiện càng lớn. Thông thường thì bên bảo vệ sẽ dụ cho đối phương bắn. Đôi khi chỉ là để đối phương bắn vào cái mũ sắt. Trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940) giữa Phần Lan và Liên Xô, người Phần Lan khá thành công trong việc sử dụng chiến thuật "Kylma-Kalle" (Charlie Lạnh). Một người nộm được phủ quần áo là mục tiêu thu hút, ví dụ đóng giả một viên sĩ quan giấu mình một cách cẩu thả. Các xạ thủ Xô viết thiếu kinh nghiệm thường mắc bẫy này. Ngay khi biết được góc có viên đạn bắn tới, một khẩu súng cỡ nòng lớn, ví dụ súng chống tăng, sẽ bắn về phía đó để tiêu diệt xạ thủ.
Các chiến thuật khác bao gồm sử dụng pháo hay súng cối, hỏa mù, hoặc đặt mìn, bẫy gần các vị trí thuận lợi cho xạ thủ bắn tỉa.
Một chiến thuật đối phó bắn tỉa cổ điển là buộc các giẻ rách (hoặc vật liệu tương tự) vào các cây và bụi cây ở khu vực nguy hiểm. Các giẻ này lay động một cách ngẫu nhiên, làm rối loạn chuyển động của trong tầm mắt của xạ thủ. Ưu điểm của chiến thuật này là ở sự đơn giản, nhưng nó có thể cản trở các xạ thủ ít kinh nghiệm và đôi khi ngăn chặn được xạ thủ chuyên nghiệp.
Bắn tỉa và chống bắn tỉa là sự đấu trí không ngừng. Khi có sự cải tiến của phía này thì bên kia lại tìm cách hạn chế.
Huấn luyện giúp các xạ thủ bắn tỉa dần có được kỹ năng để hành động hiệu quả. Xạ thủ quân sự phát triển các kỹ năng ngụy trang, ẩn nấp, tiếp cận, quan sát và bắn súng trong các tình huống tác chiến khác nhau. Trong thời gian luyện tập các kỹ năng cơ bản, xạ thủ bắn đến hàng ngàn phát đạn trong vài tuần.
Huấn luyện kỹ năng bắn súng chỉ là một phần của khóa huấn luyện. Một xạ thủ sử dụng các chiến thuật đặc biệt để tiến nhập, di chuyển mà không bị phát hiện trong khu vực hoạt động. Các xạ thủ bẳn tỉa còn đóng vai trò là người đi trước quan sát và được huấn luyện để cung cấp thông tin vị trí chính xác cho pháo binh và không quân. Các chức năng khác của xạ thủ bắn tỉa còn là do thám và thu thập tin tức. Một kỹ năng khác là phân biệt và lựa chọn mục tiêu, xác định khí tài hay cá nhân nào là mục tiêu cần tiêu diệt.
Các xạ thủ bắn tỉa được huấn luyện để bóp cò bằng đầu ngón tay nhằm hạn chế xê dịch khẩu súng, tư thế bắn chính xác nhất là nằm sấp với túi cát hoặc giá hai, ba chân đỡ súng, và áp má vào báng súng. Trên chiến trường, giá hai chân khá thông dụng. Đôi khi, một lớp lót được quấn quanh phần đặt tay không bóp cò để giảm xê dịch súng. Có nơi, xạ thủ được luyện hít thở sâu trước khi khi bắn, sau đó bắn khi phổi không còn không khí. Ở những trường huấn luyện tinh vi hơn, xạ thủ luyện bắn giữa hai lần tim đập để giảm thiểu rung súng. Thêm vào đó, còn phải nắm vững kỹ năng xác định khoảng cách, gió, chênh lệnh độ cao và những yếu tố có thể ảnh hưởng đường bay viên đạn.
Các xạ thủ ấn định kính ngắm và súng trùng nhau ở một khoảng cách bắn nhất định, tức là ở khoảng cách đó viên đạn bay chính xác vào tâm điểm trên kính ngắm. Khi biết điểm viên đạn sẽ chạm ở khoảng cách biết trước, xạ thủ sẽ tính toán để điều chỉnh phù hợp với sức gió, khoảng cách dựa trên hiểu biết về đường bay của viên đạn. Mỗi xạ thủ điều chỉnh súng thường xuyên để thích nghi với điều kiện với áp suất và đảm bảo rằng đường đạn luôn ổn định.
Thời gian huấn luyện là cần thiết để các kỹ năng được hấp thụ đầy đủ, xạ thủ khi đó có thể ước tính chính xác khoảng cách, các yếu tố không khí (gió, mưa, nhiệt độ, độ ẩm) và bắn trúng mục tiêu chỉ với một phát đạn.
Khoảng cách tới mục tiêu nên được đo đạc và ước tính càng chính xác càng tốt. Tính toán khoảng cách trở nên tối cần thiết với những mục tiêu ở xa bởi viên đạn đi theo đường vòng cung và xạ thủ phải điều chỉnh súng cao hơn mục tiêu do viên đạn sẽ bay hạ xuống bởi trọng lực. Nếu khoảng cách không được xác định chính xác, viên đạn sẽ bay quá cao hoặc quá thấp. Ví dụ, loại đạn phổ biến cho xạ thủ là 7.62 × 51 mm NATO M118 Special Ball sẽ "rơi" thêm 200 mm khi khoảng cách tăng từ 700 m lên 800 m. Điều này có nghĩa, nếu khoảng cách thực là 800 m nhưng tính toán sai thành 700m, viên đạn sẽ đi xuống dưới điểm cần bắn 200 mm.
Ống nhòm hay kính ngắm có thiết bị laser đo khoảng cách có thể được sử dụng nhưng thường là không được lựa chọn trên chiến trường bởi tia laser có thể bị đối phương phát hiện. Một phương pháp hữu dụng để xác định khoảng cách là so sánh chiều cao của mục tiêu (hoặc vật thể gần mục tiêu) với thước đo trên kính ngắm để suy ra khoảng cách. Trung bình đầu người có kích thước chiều ngang 150 mm, vai rộng 500 mm, và khoảng cách từ mông lên đỉnh đầu là 1 m. Có nhiều phương pháp tính khoảng cách khác nhau được sử dụng giúp xạ thủ xác định chính xác khoảng cách.
Bắn tới mục tiêu cao hơn hay thấp hơn cũng cần tính toán đặc biệt bởi tác dụng của lực hấp dẫn lên đường đạn. Gió cũng ảnh hưởng đường đạn càng nhiều khi khoảng cách tăng lên.
Bắn mục tiêu di động cần những kỹ năng tinh tế hơn, nhưng vẫn dựa trên những kỹ năng cơ bản khi bắn mục tiêu tĩnh.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.