From Wikipedia, the free encyclopedia
Súng trường Mosin (tiếng Nga: винтовка Мосина Vintovka Mosina) là một loại súng trường không tự động lên đạn từng phát một bằng khóa nòng danh tiếng của Đế quốc Nga (sau này là Liên Xô). Tên chính thức của dòng súng này là "Súng trường 3 lin mẫu năm 1891" (Трёхлинейная винтовка образца 1891 года). Trong các tài liệu phương Tây thường gọi loại súng này với tên Mosin Nagant, còn người Nga thường gọi nó là "ba vạch" (трёхлинейка, tryokhlineyka) hay "Mosinka" (Мосинка). Vài dân chơi súng săn của Nga vẫn giữ tên gọi "ba vạch" này. K44 là cái tên thông dụng nhất của khẩu súng này ở Việt Nam và Trung Quốc. Súng sử dụng đạn 7.62×54mmR danh tiếng của Nga.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Súng được sử dụng bởi quân đội Đế quốc Nga từ năm 1891. Sau này, một ủy ban chuyên môn hiện đại hóa vũ khí cũ của Hồng Quân Liên Xô đã tiến hành hiện đại hóa súng vào năm 1930 và sau đó, họ lại tiếp tục sản xuất và sử dụng nó trong suốt Thế chiến thứ hai và hậu chiến. Tới sau Thế chiến II, khẩu súng trường này đã dần trở nên lạc hậu và cũ kĩ trước các khẩu súng trường tiến công mới được phát minh (như AK-47), tuy vậy súng trường Mosin-Nagant vẫn tiếp tục phục vụ với vai trò súng bắn tỉa huyền thoại và việc sản xuất chỉ dừng lại vào năm 1965 khi Liên Xô lựa chọn súng trường bắn tỉa SVD (của nhà thiết kế Yevgeny Dragunov, một trong những "ông vua thiết kế súng thể thao Liên Xô thời đó". Một điều thú vị là những thiết kế súng thể thao của ông Dragunov đều được ông thiết kế từ khẩu súng trường Mosin Nagant) làm súng bắn tỉa tiêu chuẩn mới thay thế cho súng trường Mosin-Nagant. Tuy Liên Xô dừng sản xuất súng từ năm 1965 nhưng ở các nước ngoài Liên Xô thì việc sản xuất vẫn được tiếp tục duy trì cho đến khi họ sản xuất được loại súng bắn tỉa huyền thoại mới cho riêng họ.
Sau Thế chiến thứ hai, nhiều quân đội của các nước khác nhau trên thế giới (như Tiệp Khắc, Hungary, Trung Quốc, Việt Nam...) tiếp tục sử dụng và sản xuất nó. Và Liên Xô cũng cho phép họ được sản xuất nó mãi cho đến tận khi họ phát triển được dây chuyền sản xuất súng trường bắn tỉa Dragunov SVD (hoặc những mẫu súng trường bắn tỉa khác do họ tự phát triển) thay thế. Đến nay, Degtyaryov Plant và Tula Arms Plant của Nga vẫn còn duy trì việc sản xuất phiên bản dân sự của khẩu Mosin-Nagant. Cho đến năm 2020, Mosin-Nagant vẫn tiếp tục xuất hiện trong một số cuộc xung đột với vai trò súng bắn tỉa ở Iraq, Syria... Với thời gian phục vụ hơn 130 năm, súng trường bắn tỉa Mosin-Nagant đã trở thành loại súng quân sự huyền thoại được duy trì trong biên chế quân đội lâu nhất trên thế giới.
Trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (cuộc chiến 93 ngày), binh sĩ Nga được trang bị loại súng trường Berdan cũ kĩ (từ năm 1868) mà nước này mua từ Hoa Kỳ. Trong khi đó, binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ được trang bị khẩu Winchester Model 1873 hiện đại (cũng được Thổ Nhĩ Kỳ mua trực tiếp từ hãng Winchester của Hoa Kỳ) khiến cho phía Nga bị thương vong lớn vì những khẩu Winchester Model 1873 của quân Thổ có tốc độ bắn cao hơn, lượng đạn bắn ra nhiều hơn (khẩu Berdan chỉ cho phép lính Nga "nạp một viên, bắn một phát", trong khi khẩu Winchester 1873 được trang bị hẳn một "ống đạn" lên tới 15 viên). Dù là nước chiến thắng nhưng Nga lại chịu thiệt hại năng nề về quân số (34,742 lính Nga thiệt mạng trong chiến đấu, còn con số này phía Thổ là khoảng 30,000 lính). Ngay sau khi cuộc chiến kết thúc, các chỉ huy Nga đã khẩn khoản yêu cầu Nga Hoàng phải tiến hành hiện đại hóa trang bị của quân đội. Trong nỗ lực hiện đại hóa này, thiết kế của đại úy Nga Sergei Mosin cùng với thiết kế của một thợ súng người Bỉ là Léon Nagant đã được chấp nhận và kết hợp lại thành một mẫu súng trường mới dùng đạn cỡ 7,62x54mmR vào năm 1891. Ban đầu, mẫu thiết kế của đại tá Mosin gặp khá nhiều lỗi như hai viên đạn cùng được đẩy lên nòng súng cùng một lúc gây kẹt đạn, súng còn khá thô sơ và không chắc chắn. Người Nga nhanh chóng áp dụng thiết kế của khẩu súng trường Nagant 1887 vì họ nhận ra rất nhiều ưu điểm của mẫu thiết kế này nhằm bù đắp lại những nhược điểm chết người trong thiết kế của đại tá Mosin. León Nagant, cha đẻ của khẩu Nagant 1887 đã nhanh chóng phát hiện ra việc này và ông cùng với anh trai Emile Nagant đã đâm đơn khởi kiện chính quyền Sa Hoàng vì họ dám sử dụng thiết kế đã được đăng kí sở hữu tại Bỉ của Nagant một cách tự ý mà không hề xin phép. Vì muốn tiếp tục duy trì sự hợp tác với Fabrique d'armes Émile et Léon Nagant (công ty vũ khí tư nhân này có trụ sở sản xuất và kinh doanh chính ở Liege, Bỉ) nên chính quyền Sa Hoàng đã bồi thường cho công ty này một số tiền khổng lồ: 200,000 rúp Nga (rúp Nga thời giá 1889). Việc sản xuất súng được tiến hành ngay từ năm 1892 tại Tula Arms Plant (được thành lập từ năm 1712) của Nga và Manufacture d'armes de Chatellerault của Pháp. 4 năm sau, năm 1896, Tula (của Nga) đã tiến hành đàm phán với Chatellerault (của Pháp) về việc họ xin rút sản xuất Mosin-Nagant từ Chatellerault về Tula. Đồng thời, Tula cũng tiến hành chi trả khoản tiền mà Tula còn nợ Chatellerault về hợp đồng sản xuất khoảng 500,000 khẩu súng trường Mosin-Nagant mà Chatellerault đã sản xuất trong giai đoạn từ 1892 đến 1896. Từ sau năm 1896 thì Mosin-Nagant được Tula Arms Plant (của Đế quốc Nga) sản xuất là chủ yếu. Sau Tula còn có Sestroryetsk và Izhmash.
Trong Chiến tranh Nga-Nhật 1904, khoảng 3,8 triệu khẩu Mosin-Nagant 1891 đã được trang bị cho quân đội Đế quốc Nga. Mặc dù đã có một số phiên bản cải tiến ra đời (Mosin-Nagant M91/07), song trong Thế chiến thứ nhất, khoảng 3,3 triệu khẩu Mosin-Nagant đời 1891 đã được đặt hàng sản xuất tại Mỹ. Khi Cách mạng Tháng Mười nổ ra, một số súng Mosin-Nagant 1891 vẫn chưa kịp bàn giao lại cho quân đội Nga hoàng. Những súng này sau đó được trang bị lại cho lính của quân đội Mỹ can thiệp vào Nga trong thời kì Nội chiến Nga (1919-1923). Một số khác được trang bị cho các đơn vị quân đội Hoa Kỳ trong nước. Hoa Kỳ cũng dựa vào mẫu Mosin-Nagant model 1891 mà thiết kế nên súng trường "U.S. Rifle, 7.62mm, Model of 1916", một trong những loại súng trường quân dụng phổ biến nhất của Hoa Kỳ một thời, cùng với M1903 Springfield hay M1917 Enfield. Nó bị Mỹ loại biên năm 1928 do nước này thiếu thốn về chi tiết, phụ tùng thay thế, nguồn đạn dược và quan trọng hơn hết là do mâu thuẫn chính trị (tư bản-cộng sản) ngày càng gay gắt giữa nước này và Liên Xô.
Một số lượng lớn súng Mosin Nagant đã bị quân đội Đức và Áo-Hung tịch thu và sử dụng lại. Trong thời gian Nội chiến Nga, súng Mosin Nagant lại tiếp tục được cả hai phía Hồng quân và Bạch vệ ưa chuộng. Sau khi Hồng quân chiến thắng, vào năm 1924, một ủy ban hiện đại hóa vũ khí đã tiến hành dự án hiện đại hóa súng Mosin-Nagant, và Mosin-Nagant M91/30 ra đời.
Phần Lan có thời là xứ phụ thuộc của Đế quốc Nga, nên cũng quen dùng súng Mosin-Nagant model 1891. Sau này, Phần Lan cho ra vài phiên bản cải tiến. Kết quả là trong Chiến tranh Mùa Đông và Chiến tranh Tiếp diễn (đều trong Thế chiến thứ hai) cả hai bên chiến tuyến đều dùng súng Mosin-Nagant.
Súng Mosin-Nagant còn được trang bị cho lực lượng kháng chiến Franco trong Nội chiến Tây Ban Nha.
Khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô vào năm 1941, Mosin-Nagant M91/30 là súng trường chiến đấu tiêu chuẩn của quân đội Liên Xô. Hàng triệu cây súng đã được sản xuất để đưa ra chiến trường.Phiên bản bắn tỉa của súng Mosin-Nagant đã được Liên Xô chế tạo thành công năm 1932, đã gây được tiếng vang lớn trong thời kì này, góp phần tạo nên chiến tích của nhiều xạ thủ bắn tỉa anh hùng Liên Xô như Mikhail Surkov, Vasily Zaitsev và Lyudmila Pavlichenko trong trận Stalingrad. Bên phía Phần Lan, xạ thủ bắn tỉa Simo Hayha cũng sử dụng 1 cây M28 (phiên bản Mosin Nagant do Phần Lan tự sản xuất). Đến cuối Thế chiến thứ hai, tổng cộng đã có khoảng 17,4 triệu khẩu Mosin-Nagant M91/30 đã được sản xuất, nhiều hơn bất kỳ mẫu súng trường nào khác được sản xuất trong cuộc chiến này.
Sau này, một kĩ sư tên N.X.Xêmin đã cải tiến từ mẫu ban đầu 1891/30 của S.I.Mosin và mẫu gần hơn (1930), đưa vào trang bị của Quân đội Liên Xô (2/1944). Sau đó, Liên Xô còn đưa ra mẫu Mosin-Nagant M91/59. Đây là mẫu cuối cùng của súng này được thiết kế ở Liên Xô. Sau Thế chiến thứ hai, Mosin Nagant dần dần được thay thế bằng CKC hay SVD. Tuy nhiên nó vẫn được các nước Đông Âu và một số quốc gia xã hội chủ nghĩa sử dụng trong các cuộc chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam và Afghanistan
Các nước Tiệp Khắc, Bulgaria, Ba Lan, Trung Quốc cũng phát triển các mẫu súng của riêng họ dựa trên mẫu Mosin-Nagant 91/44 hoặc Mosin-Nagant 91/59 của Liên Xô.
Loại súng này được sử dụng tại Việt Nam từ năm 1950 và nó sử dụng rộng rãi trong 2 cuộc chiến là Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Nhân dân và du kích miền Nam Việt Nam thường gọi Mosin-Nagant là súng bá đỏ vì màu sơn đỏ hung hung ở báng súng. Quân đội nhân dân Việt Nam thì lại gọi nó là K-44. Nhờ tầm bắn xa và uy lực đạn mạnh, súng được dùng làm vũ khí bắn tỉa rất tốt của Quân Giải Phóng miền Nam Việt Nam. Nó được gọi là "cơn ác mộng của lính Mỹ ở chiến trường Khe Sanh". Lính bắn tỉa của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dùng khẩu súng này gắn thêm kính ngắm PU lên súng để làm súng bắn tỉa khiến cho lính Mỹ đóng chốt ở Khe Sanh mất ăn mất ngủ vì "sợ bắn tỉa".
Khi được trang bị loại đạn chống tăng AT, K-44 có thể bắn cháy được cả xe bọc thép. Trong trận đánh sáng ngày 8/3/1967, khi quân Mỹ tiến hành càn quét ở vùng tây bắc tỉnh Tây Ninh, dũng sĩ Trần Ngọc Đặng đã dùng đạn AT bắn cháy 2 chiếc thiết giáp địch.
K-44 cũng là một vũ khí khá nguy hiểm đối với các loại trực thăng của Mỹ: dân quân Việt Nam thường dùng chiến thuật ẩn nấp dưới hầm hoặc tán cây, đợi trực thăng Mỹ sà thấp tìm mục tiêu hoặc đổ quân thì sẽ nổ súng, nếu bắn trúng động cơ, cánh quạt hoặc bộ phận điều khiển thì trực thăng rất dễ bị rơi. Trong số hơn 5.600 trực thăng các loại của Mỹ bị phá hủy ở Việt Nam, có một tỷ lệ khá lớn bị hạ do súng bộ binh như K-44. Ví dụ như Anh hùng diệt Mỹ C'lâu Nâm (nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Tây Giang, tỉnh Quảng Nam) đã bắn rơi 7 trực thăng địch chỉ bằng khẩu K-44. Trận đánh kéo dài 6 ngày hồi cuối tháng 5/1966 là trận đánh lớn nhất, ông cùng đồng đội đánh trả các đợt hành quân của địch, diệt 139 quân Mỹ, bắn rơi 7 máy bay trực thăng. Trong đó, ông trực tiếp tiêu diệt 2 trực thăng đổ bộ của Mỹ[1].
Thậm chí dân quân Việt Nam có thể dùng K-44 để bắn hạ máy bay phản lực ở độ cao thấp (bay ở độ cao vài trăm mét trở xuống). Nghe thì có vẻ phi lý, nhưng thực ra ở thời kỳ đó, để ném bom chính xác thì máy bay phải giảm tốc độ và sà xuống thấp (ném bom bổ nhào), cuối quá trình bổ nhào này thì máy bay chỉ cách mặt đất mấy trăm mét, hoàn toàn nằm trong tầm sát thương của súng K-44. Trong chiến tranh Việt Nam, phi công Mỹ đã được khuyến cáo phải đề phòng súng trường K-44 trong tay dân quân Việt Nam, bởi nếu một viên đạn K-44 bắn trúng vào thùng nhiên liệu, buồng lái hoặc bộ phận điều khiển sẽ có thể làm máy bay rơi[2] Dân quân xã Diễn Hùng (Diễn Châu, Nghệ An) được công nhận là một trong những lực lượng đầu tiên tại miền Bắc dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay phản lực Mỹ, khẩu súng K-44 đó vẫn được lưu trữ tại bảo tàng quân khu 4[3].
Một số ví dụ về việc dân quân Việt Nam dùng súng K-44 bắn hạ máy bay phản lực Mỹ và được tài liệu Mỹ xác nhận:
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.