M16
loạt súng trường Hoa Kỳ From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
M16 là một loạt súng trường do hãng Colt cải tiến từ súng AR-15 của hãng ArmaLite. Đây là loại súng tác chiến bắn đạn 5,56×45mm NATO. M16 là súng thông dụng của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1969.
M16 nhẹ, khoảng 3,1 kg, do có thành phần làm bằng thép, hợp kim, nhôm và nhựa cứng (sợi thủy tinh hoặc polymer), sử dụng kỹ thuật giảm nhiệt bằng hơi, tác động lên cò bằng khí ép, đạn nạp từ băng tiếp đạn với cơ cấu khóa nòng xoay.[17] Có ba loại khác nhau trong qua trình sản xuất súng M16. Loại đầu tiên là M16 và M16A1, sử dụng trong thập niên 1960, bắn đạn M193/M196 (hoặc .223 Remington), có thể bắn hoàn toàn tự động hay bán tự động, và hai mẫu XM16E1 và M16A1 đồng loạt được sử dụng ở chiến trường Việt Nam, sử dụng băng đạn 20 viên. Loại kế tiếp là M16A2, thập niên 1980, bắn đạn M855/M856 (do FN Herstal của Bỉ thiết kế), có khả năng bắn từng viên hay bắn từng loạt 3 viên, băng đạn được cải tiến lên 30 viên. Loại sau cùng là M16A4, súng trường tiêu chuẩn của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq. M16A4 và súng trường M4 Carbine dần dần được dùng thay thế M16A2, vốn đã hơi lỗi thời và kém tiện dụng. So với M16A1 và A2, M16A4 và M4/M4A1 có một số cải tiến về hình dáng ngoài: quai xách tháo rời có thể dùng để gắn kính ngắm, dụng cụ chấm mục tiêu bằng tia laser, kính nhìn ban đêm, đèn pin và súng phóng lựu.


Remove ads
Lịch sử
Bối cảnh
Vào năm 1928, một hội đồng của Lục quân Hoa Kỳ đã thực hiện các thí nghiệm các cỡ đạn tại bãi thử nghiệm Aberdeen và khuyến nghị quân đội dần chuyển sang sử dụng các cỡ đạn nhỏ hơn, cụ thẻ là cỡ đạn .27 inch (6,86mm). Do các lí do, đề xuất này bị quân đội bác bỏ và quân đội lựa chọn cỡ đạn .30 inch (7,62mm) như cỡ đạn tiêu chuẩn trong 35 năm tiếp theo.[18] Sau Thế chiến 2, quân đội Mỹ bắt đầu tìm kiếm một mẫu súng trường tự động để thay thế các khẩu M1 Garand, M1/M2, Browning M1918, M3 "Grease Gun" và súng tiểu liên Thompson.[19] Tuy nhiên, các thử nghiệm về một phiên bản của khẩu M1 Garand cho kết quả đáng thất vọng.[20] Trong chiến tranh Triều Tiên, khẩu carbine M2 với chế độ bắn tự chọn thay thế hầu như cá khẩu súng tiểu liên trong biên chế quân đội Mỹ[21] và trở thành phiên bản súng carbine phổ biến nhất.[22] Tuy nhiên, các kinh nghiệm chiến trường cho thấy cỡ đạn .30 carbine có uy lực quá yếu.[23] Các nhà thiết kế vũ khí Mỹ đi đến kết luận rằng một cỡ đạn trung gian là cần thiết, và khuyến nghĩ sử dụng một cỡ đạn nhỏ với vận tốc lớn.[24]
Tuy nhiên, các chỉ huy cấp cao của Mỹ, những người đã đối mặt với các vấn đề về hậu cần trong thế chiến 2 và chiến tranh Triều Tiên,[25][26] quả quyết rằng phải phát triển một cỡ đạn .30 mới với sức mạnh lớn hơn, không những để dành cho súng trường tự động mà còn cần sử dụng bởi súng máy đa chức năng.[27] Điều này đã dẫn đến sự phát triển của cỡ đạn mới là 7.62×51 mm NATO.[28]
Lục quân Hoa Kỳ đã tiến hành thử nghiệm các mẫu súng mới để thay thế cho khẩu M1 Garand đã lỗi thời. Mẫu T44E4 của Springfield Armory và phiên bản nặng hơn là T44E5 vốn là phiển bản nâng cấp của khẩu M1 sử dụng cỡ đạn 7.62 mm, trong khi hãng Fabrique Nationale của Bỉ đã đưa khẩu FN FAL với mã định danh T48. ArmaLite tham gia cuộc thi muộn hơn, đưa một vài khẩu AR-10 phiên bản thử nghiệm vào mùa thu năm 1956 tới kho vũ khí Springfield của lục quân Hoa Kỳ để tiến hành thử nghiệm.[29] Phiên bản AR-10 có một thiết kế nòng thẳng hàng với báng tân tiến so với thời bấy giờ, với hộp khóa nòng được gia công từ nhôm và báng làm từ polyme (phenol formaldehyde).[30] Nó cũng có thước ngắm cao hơn so với nòng, loa che lửa bằng nhôm [chú thích 1], và hệ thống trích khí với khả năng tùy chỉnh.[32] Nguyên mẫu cuối cùng có hộp khóa nòng với bản lề và các chốt giống với các phiên bản hiện tại, cần lên đạn được đặt phía trên hộp tiếp đạn thay vì đặt bên trong tay xách súng.[29] So với một khẩu súng dùng cỡ đạn 7.62 mm NATO, khẩu AR-10 có khối lượng nhẹ một cách đáng kinh ngạc với chỉ 6,85 lb (3,11 kg) khi không đạn.[33] Các phản hồi của Springfield Armory là tích cực, và một số người thử nghiệm còn cho rằng AR-10 là khẩu súng trường hạng nhẹ tốt nhất mà họ từng thử nghiệm.[34] Nhưng cuối cùng, Lục quân Mỹ quyết định chọn mẫu T44 vào biên chế với định danh M14,[28] vốn là phiên bản nâng cấp của khẩu M1 Garand với băng đạn 20 viên và chế độ bắn tự động.[35][chú thích 2] Quân đội Hoa Kỳ cũng chấp nhận biên chế súng máy đa chức năng M60.[28] Các nước thành viên NATO cũng đưa vào biên chế mẫu FN FAL và HK G3, cũng như các súng máy đa chức năng FN MAG và Rheinmetall MG3.
Cuộc đối đầu đầu tiên giữa AK-47 và M14 xảy ra vào phần đầu của chiến tranh Việt Nam. Các báo cáo chiến trường cho thấy khẩu M14 khi bắn ở chế độ tự động giật một cách không thể kiểm soát và binh sĩ không thể mang đủ đạn để duy trì lợi thế hỏa lực so với khẩu AK-47.[37] Và trong khi khẩu M2 có tốc độ bắn cao hơn, sức xuyên và hỏa lực của nó hoàn toàn bị áp đảo bởi AK-47.[38] Một sự thay thế là cần thiết, một khẩu súng nằm giữa hỏa lực tốt của khẩu M14 và hỏa lực hạng nhẹ của khẩu M2.[39]
Như một kết quả tất yếu, Lục quân buộc phải xem xét đề xuất năm 1957 của tướng Willard G. Wyman để phát triển súng trường có chế độ bắn tùy chọn với băng đạn khoảng 20 viên sử dụng cỡ đạn .223-inch caliber (5.56 mm) và nặng khoảng 6 lb (2,7 kg).[40] Cỡ đạn 5.56 mm phải có thể xuyên được mũ bảo vệ tiêu chuẩn của quân đội Mỹ ở khoảng cách 500 thước Anh (460 mét) và duy trì được vận tốc siêu âm khi giữ được khả năng sát thương của cỡ đạn .30 carbine.[41]
Yêu cầu này dẫn đến một phiên bản thu nhỏ của khẩu Armalite AR-10, với cái tên ArmaLite AR-15.[42] Mẫu AR-15 được giới thiệu lần đầu bởi Eugene Stoner tại Fort Benning vào tháng 5 năm 1957.[43] Khẩu AR-15 dùng cỡ đạn .22, vốn mất sự ổn định sau khi bắn trúng cơ thể người, trái ngược với cỡ đạn .30 khi nó xuyên thẳng qua.. Cỡ đạn nhỏ hơn cũng có nghĩa là khi bắn ở chế độ tự động khẩu súng cũng có thể dễ kiểm soát hơn. Với khối lượng chỉ bằng một phần ba cỡ đạn .30 cũng có nghĩa rằng binh sĩ có thể mang nhiều đạn hơn với khối lượng đạn mang theo là tương đương. Vì các cải tiến về kĩ thuật, AR-15 có thể bắn với tốc độc 600 đến 700 viên/phút với tỉ lệ kẹt đạn rất thấp. Các chi tiết máy được chế tạo bằng phương pháp dập, không phải thao tác thủ công nên có thể sản xuất hàng loạt một các dễ dàng, và phần báng cũng làm bằng nhựa để giảm trọng lượng.[18]
Biên chế

Vào tháng bảy năm 1960, tướng Curtis LeMay cảm thấy ấn tượng bởi sự thể hiện của khẩu ArmaLite AR-15. Vào mùa hè năm 1961, tướng LeMay được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Không quân Hoa Kỳ và ông đã đặt hàng 80.000 khẩu AR-15s. Tuy nhiên, tướng Maxwell D. Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, đưa ra lời khuyên tổng thống John F. Kennedy rằng có hai cỡ đạn khác nhau trong biên chế sẽ tạo ra vấn đề và đơn hàng trên bị hủy bỏ.[44] Tháng 10 năm 1961, William Godel, một nhân viên kỳ cựu tại DARPA, đã gửi 10 khẩu AR-15 tới Nam Việt Nam. Những đánh giá gửi về là tích cực, vì vậy ông đã gửi thêm 1.000 khẩu vào năm 1962. [45] Binh sĩ của đơn vị đặc nhiệm Lục quân đã viết báo cáo rằng họ rất thích khẩu AR-15 và sức mạnh của cỡ đạn 5.56 mm và mong muốn rằng nó được đưa vào biên chế.[35]
Sát thương gây ra bởi đạn 5.56 mm do sự nhiễu động của viên đạn khi nó xuyên vào mục tiêu gây ra bởi tỉ lệ xoắn 14 inch (360 mm) của nòng súng.[46] Tuy nhiên, mọi đầu đạn chì đều có sự nhiễu động như vậy sau khi xuyên vào da thịt, bởi vì trọng tâm của đầu đạn được đặt ở rìa sau viên đạn. Vết thương được quan sát thấy ở Việt Nam cho thấy rằng sát thương để gây ra vởi các mảnh vỡ của đạn kết hợp bởi vận tốc và cấu trúc của viên đạn.[47] [48]
Mặc dù các bằng chứng cho thấy AR-15 có thể mang tới nhiều hỏa lực hơn khẩu M14, Lục quân lại không muốn biên chế mẫu súng mới.[49] Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara bây giờ đứng giữa hai luồng ý kiến: báo cáo từ ARPA[50] cho rằng khẩu AR-15 là tốt hơn và các quan chức Lục quân lại ưa chuộng khẩu M14.[35] Kể cả tổng thống Kennedy cũng bày tỏ sự lo ngại, nên McNamara ra lệnh cho tham mưu trưởng Lục quân Cyrus Vance, thử nghiệm cả M14, AR-15 và AK-47.Báo cáo từ Lục quân cho thấy M14 phù hợp với biên chế, nhưng Vance lo ngại về các sai sót trong thử nghiệm. Ông ra lệnh Thanh tra Lục quân điều tra các thử nghiệm này và cho thấy các thử nghiệm có sự thiên vị rõ rệt với khẩu M14.
Tháng một năm 1963, bộ trưởng McNamara nhận được các báo cáo về quá trình sản xuất M14 không hiệu quả và không đạt được yêu cầu từ quân đội.[35] Vào thời điểm đó, AR-15 là khẩu súng duy nhất có thể đáp ứng đủ yêu cầu về một vũ khí bộ binh đa năng có thể đưa vào biên chế. McNamara yêu cầu đưa vào biên chế mẫu súng, mặc dù gặp một số nhược điểm, đáng kể nhất là nòng súng không được mạ chrom.[51]
Vào năm 1964, Lục quân nhận được báo cáo rằng DuPont không thể sản xuất hàng loạt loại thuốc súng IMR 4475 để khớp với yêu cầu của M16. Vì vậy, Tập đoàn Olin đã cung cấp thuốc súng mới. Mặc dù mẫu thuốc súng WC 846 của Olin có thể đạt được vận tốc 3.300 ft (1.000 m) trên giây tại đầu nòng, nó sản sinh nhiêu tàn thuốc súng hơn và dẫn đến khẩu súng dễ kẹt đạn nếu không thường xuyên vệ sinh đúng cách.[18]
Từ tháng ba năm 1965, Lục quân bắt đầu biên chế XM16E1 tới các đơn vị bộ binh. Tuy nhiên, khẩu súng ban đầu không đi kèm với một bộ bảo quản súng tử tế[35] hay bất kì hướng dẫn nào do những lời quảng cáo từ hãng Colt rằng vật liệu của M16 khiến nó cần rất ít bảo dưỡng, dẫn đến hiểu lầm rằng nó có khả năng tự làm sạch.[52] Hơn nữa, việc bảo dưỡng súng thường được thực hiện với những dụng cụ không chính thống, như thuốc xịt côn trùng, nước, nhiên liệu máy bay càng làm tăng sự hao mòn của khẩu súng.[53] Như một hệ quả tất yếu, các báo cáo về kẹt đạn bắt đầu xuất hiện từ chiến trường.[35] Vấn đề nổi bật nhất có lẽ là lỗi kẹt vỏ đạn, vỏ đạn sau khi bắn bị kẹt trong nòng.[35][54] Tài liệu cho thấy những người lính Mỹ chết khi khẩu súng của họ bị tháo rời dẫn đến một cuộc điều tra của Quốc hội Mỹ:[55]
Chúng tôi có 72 người trong trung đội nhưng chỉ có 19 người sống sót trở về... Dù bạn tin hay không, bạn biết cái gì giết chúng tôi nhiều nhất không? Chính khẩu súng của chúng tôi. Hầu như mọi người đồng đội đã hy sinh của chúng tôi đều được tìm thấy với khẩu M16 bị tháo rời bởi họ đang cố gắng sửa nó.
— Một người lính Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, Việt Nam.[56]
Vào tháng 2 năm 1967, phiên bản cải thiện XM16E1 được nhận tên định danh M16A1.[57] Súng trường mới có nòng được mạ chrom để loại bỏ sự ăn mòn với một số sửa đổi khác.[35] Bộ bảo quản súng mới và dầu bôi trơn cũng được trang bị cho binh sĩ. Các bài huấn luyện tập trung vào việc bảo quản súng cũng được thực hiện, trong đó còn có các ấn phẩm dạng truyện tranh.[58] Kết quả là, các vấn đề về độ tin cậy đã được giải quyết phần lớn và M16A1 đã được quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam sử dụng rộng rãi.[59]
Vào năm 1969, khẩu M16A1 chính thức thay thế M14 để trở thành súng trường tiêu chuẩn của quân đội Mỹ.[60][61] Vào năm 1970, mẫu thuốc súng WC 844 được sử dụng để giảm lỗi trong hoạt động.[62]
Colt, H&R, và GM sản xuất M16A1 trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam.[63] M16s được sản xuất bởi Colt những năm cuối thập niên 1980 trước khi FN Herstal (FN USA) bắt đầu sản xuất mẫu súng.[64]
Remove ads
Độ tin cậy
Trong giai đoạn đầu phục vụ, M16 có tiếng với độ tin cậy kém với tỷ lệ trục trặc khoảng 2/1000 viên bắn.[65] M16 hoạt động bằng cách dẫn khí thuốc áp suất cao (lấy từ lỗ trích khí trên nòng) qua ống dẫn khí vào cụm mang khóa trong cụm thân súng trên. Khí đi từ ống khí vào chìa nạp khí trên cụm khóa nòng, rồi vào bên trong thân mang, nơi nó giãn nở trong một piston dạng vòng. Vì thoi nạp đạn bị nòng súng chặn không cho tiến thêm, thân mang sẽ bị khí giãn nở đẩy lùi về sau, biến năng lượng khí thành chuyển động của các bộ phận súng. Phần sau của đầu khóa đóng vai đầu piston, còn lòng rỗng trong thân mang là thân piston. Dù người ta thường nói M16 dùng “trích khí trực tiếp”, cách gọi này không chính xác; đúng hơn phải nói nó dùng hệ piston bên trong thân cụm khóa nòng[66] Tuy nhiên, hệ thống này phụ thuộc vào loại đạn, vì không có cổng/van khí điều chỉnh, nên không thể tinh chỉnh súng cho các đặc tính áp suất khác nhau theo thuốc phóng, đầu đạn hay chiều dài nòng.
Hệ thống vận hành của M16 do Stoner thiết kế nhẹ và gọn hơn so với thiết kế piston–dẫn khí. Tuy nhiên, thiết kế này đồng thời dẫn cả muội súng và các sản phẩm khác từ vỏ đạn đã bắn vào thân súng. Muội carbon và kim loại bay hơi tích tụ trong hộp khóa nòng và thoi nạp đạn làm giảm độ tin cậy, buộc người lính phải bảo dưỡng kỹ hơn. Việc dẫn khí vào thân mang khóa khi vận hành cũng tăng lượng nhiệt truyền vào hộp khóa nòng khi bắn và làm cháy mất lớp bôi trơn thiết yếu. Vì vậy cần bôi trơn đúng loại, thường xuyên và đủ nhiều.[67] Thiếu bôi trơn đúng cách là nguyên nhân phổ biến nhất gây kẹt súng.[68]
Mẫu M16 nguyên bản đã hoạt động rất kém trong môi trường rừng núi Việt Nam và nổi tiếng với sự kém tin cậy trong môi trường khắc nghiệt. Max Hastings đã chỉ trích rất nhiều vấn đề nghiêm trọng của M16 trên chiến trường khi các lỗi thiết kế đang được bộc lộ rõ. Ông nói thêm trên tạp chí Shooting Times rằng ông đã trải nghiệm nhiều lỗi liên tiếp khi thử nghiệm một khẩu M16 và nghĩ rằng các lỗi này sẽ được sửa khi khẩu súng được đưa vào biên chế, nhưng sự thật lại không như vậy. Nhiều lính Thủy quân lục chiến và binh sĩ rất tức giận với vấn đề tin cậy của khẩu súng đến mức họ bắt đầu đề cập trong các bức thư gửi về nhà, và vào ngày 26 tháng 3 năm 1967, tờ Washington Daily News đã đăng câu chuyện này.[69] Về sau, M16 trở thành tâm điểm của cuộc điều tra của Quốc hội Hoa Kỳ.[70]
Cuộc điều tra đã vạch trần rằng:[71]
- M16 được cung cấp cho binh sĩ không đi kèm bộ bảo quản súng và binh sĩ không được hướng dẫn bảo quản đúng cách.
- Súng M16 và loại đạn 5,56×45mm NATO vốn được thử nghiệm và phê duyệt khi dùng thuốc phóng DuPont IMR8208M dạng đùn. Về sau, chúng bị chuyển sang dùng thuốc phóng Olin Mathieson WC846 dạng bi, vốn tạo cặn bẩn nhiều hơn rất nhiều, nhanh chóng làm kẹt cơ cấu chuyển động của M16, trừ khi súng được vệ sinh kỹ và thường xuyên.
- M16 không có cần trợ lực đóng khóa nòng, khiến súng có thể không hoạt động nếu cụm nòng–khóa nòng không tiến hết về trước.
- M16 không có mạ crôm buồng đạn, tạo điều kiện cho ăn mòn và góp phần gây lỗi kéo vỏ, được xem là vấn đề nghiêm trọng nhất, đôi khi phải dùng biện pháp “mạnh” để khắc phục, như luồn cần vệ sinh từ đầu nòng xuống và đóng mạnh để đẩy vỏ đạn kẹt ra.

Khi các vấn đề này được đề cập và khắc phục với khẩu M16A1, các vấn đề liên quan đến độ tin cậy của súng giảm rõ rệt.[57] Theo báo cáo năm 1968 của Bộ Lục quân Hoa Kỳ, súng trường M16A1 được đón nhận rộng rãi từ binh sĩ Mỹ đóng tại Việt Nam.[72]“Phần lớn binh sĩ mang M16 ở Việt Nam đánh giá cao hiệu năng của khẩu súng này; tuy vậy, nhiều người vẫn có đôi chút hoài nghi về độ tin cậy của M16. Khi được hỏi muốn mang loại vũ khí nào trong chiến đấu, 85% cho biết họ muốn M16 hoặc phiên bản carbine ngắn hơn của nó, XM177E2.” Ngoài ra: “M14 được 15% ưa thích, trong khi dưới 1% muốn mang súng trường Stoner, AK-47, carbine [M1] hoặc súng ngắn.”[73]Vào tháng 3 năm 1970, “Nhóm Ủy ban Bảo vệ Dải băng Xanh của Tổng thống” (President’s Blue Ribbon Defense Panel) kết luận rằng việc trang bị M16 đã cứu sống khoảng 20.000 binh sĩ Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam—những người lẽ ra đã thiệt mạng nếu M14 vẫn tiếp tục được sử dụng.[74] Tuy nhiên, danh tiếng của M16 bị ảnh hưởng đến tận 2011.[75]
Một nguyên nhân nền tảng khác gây kẹt trên M16 được các cán bộ tiếp liệu xác định: họ phát hiện Stoner và các hãng đạn ban đầu đã thử nghiệm AR-15 với thuốc phóng DuPont IMR8208M dạng đùn. Về sau, các nhà sản xuất đạn chuyển sang dùng Olin Mathieson WC846 dạng bi dễ kiếm hơn. Thuốc phóng dạng bi tạo đỉnh áp suất buồng đạn kéo dài hơn, dẫn tới hiệu ứng thời điểm không mong muốn. Khi bắn, vỏ đạn nở ra và bịt kín buồng đạn. Khi đỉnh áp bắt đầu giảm, vỏ đạn co lại và có thể được kéo ra. Với thuốc phóng dạng bi, do đỉnh áp kéo dài, vỏ chưa co đủ tại thời điểm kéo vỏ. Bộ kéo vỏ khi đó không nhổ được vỏ, có thể xé rách vành vỏ đạn, để lại một vỏ đạn bịt kín trong buồng đạn.[76]
Sau khi đưa vào sử dụng M4 carbine, người ta phát hiện chiều dài nòng ngắn hơn (14,5 inch) cũng làm giảm độ tin cậy, vì lỗ trích khí nằm gần buồng đạn hơn so với súng trường M16 tiêu chuẩn: 7,5 inch so với 13 inch.[77]Điều này ảnh hưởng đến nhịp vận hành của M4 và làm tăng ứng suất cùng nhiệt lên các cụm chi tiết then chốt, từ đó giảm độ tin cậy.[77] Trong một đánh giá năm 2002, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (USMC) kết luận M4 thường trục trặc gấp ba lần so với M16A4 (M4 hỏng 186 lần/69.000 viên, trong khi M16A4 hỏng 61 lần).[78] Sau đó, Lục quân và hãng Colt đã tiến hành các sửa đổi đối với M4 và M16A4 để khắc phục các vấn đề được phát hiện.[78] Trong các thử nghiệm năm 2005 và 2006, Lục quân ghi nhận trung bình các M4/M16 mới bắn khoảng 5.000 viên giữa các lần kẹt.[78][79]
Tháng 12 năm 2006, Trung tâm Phân tích Hải quân (CNA) công bố báo cáo về vũ khí bộ binh Mỹ trong tác chiến, dựa trên khảo sát 2.608 quân nhân vừa trở về từ Iraq và Afghanistan trong 12 tháng, chỉ bao gồm những người đã nổ súng vào mục tiêu địch; trong số này, 1.188 người (46%) trang bị M16A2/A4. Kết quả cho thấy 75% người dùng M16 (891 người) hài lòng với vũ khí; 60% (713 người) hài lòng với khả năng thao tác như ốp tay, kích thước và trọng lượng, còn trong 40% không hài lòng thì phần lớn phàn nàn về kích thước. Chỉ 19% (226 người) báo cáo gặp kẹt súng, và 80% trong số đó nói sự cố ít ảnh hưởng đến khả năng xử lý kẹt và tiếp tục giao chiến; một nửa người dùng M16 từng gặp lỗi tiếp đạn do hộp tiếp đạn. Có 83% (986 người) không cần sửa chữa súng trong thời gian làm nhiệm vụ; 71% (843 người) tin cậy vào độ tin cậy (vũ khí bắn không trục trặc) và 72% (855 người) tin cậy vào độ bền (không gãy/hỏng, không cần sửa), những đánh giá này được cho là nhờ mức độ bảo dưỡng cao do binh sĩ thực hiện. Đồng thời, 60% người dùng M16 đề xuất cải tiến như tăng sát thương đầu đạn, cấp súng mới thay vì tân trang, hộp tiếp đạn chất lượng hơn, giảm trọng lượng và trang bị báng gập/điều chỉnh; một số khuyến nghị dùng vũ khí ngắn nhẹ hơn như carbine M4.[80] Một số vấn đề sau đó đã được khắc phục với hộp tiếp đạn STANAG cải tiến phát hành tháng 3/2009,[81][82] và đạn M855A1 (Enhanced Performance Round) vào tháng 6/2010.[83]
Đầu năm 2010, hai phóng viên của The New York Times đã dành ba tháng cùng binh sĩ Lục quân và Thủy quân Lục chiến Mỹ tại Afghanistan. Tại đây, họ hỏi khoảng 100 lính bộ binh về độ tin cậy của súng trường M16 cũng như carbine M4. Những người được hỏi không báo cáo vấn đề về độ tin cậy của súng. Dù chỉ 100 người được khảo sát, họ đều tham chiến hằng ngày ở Marja, gồm ít nhất hàng chục trận đánh ác liệt tại tỉnh Helmand, nơi mặt đất phủ lớp cát mịn (binh sĩ gọi là “bụi mặt trăng”) rất dễ bám vào vũ khí[84] Súng thường bám bụi, ướt và lấm bùn; các trận đấu súng dữ dội kéo dài hàng giờ với nhiều băng đạn được bắn hết. Chỉ một binh sĩ báo bị kẹt sau khi khẩu M16 của anh bị bùn phủ kín khi trèo khỏi kênh; súng được xử lý kẹt và bắn lại ngay với viên tiếp theo vào buồng đạn. Ngoài ra, sĩ quan kỹ thuật phụ trách huấn luyện và đánh giá vũ khí của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 6 TQLC cho biết: “Chúng tôi hầu như không gặp vấn đề gì; không có trục trặc,” với 350 khẩu M16 và 700 khẩu M4 của đơn vị.[84]
Remove ads
Các biến thể


M16
Phiên bản đầu tiên của dòng M16, cải tiến từ khẩu AR-15, có ốp lót tay hình tam giác và hộp tiếp đạn 20 viên. Tuy nhiên, loại súng này rất dễ kẹt đạn vì hãng Colt làm nhẹ các bộ phận chuyển động của mẫu AR-15 đi.
M16A1
Cải tiến từ M16, sửa một số lỗi, đặc biệt ít kẹt đạn hơn hẳn. Thay đổi rõ rệt nhất là M16A1 có một cần đẩy với nút nhấn ở bên phải cò súng (Foward Assist) giúp thay đạn nhanh hơn. Phiên bản hoàn chỉnh được thông qua và sản xuất vào năm 1967.
M16A2
Đây là phiên bản cải tiến lớn của dòng súng M16. Ngoài thay đổi về độ xoắn nòng, Colt cũng trang bị cho M16A2 một nòng dày và chịu lực tốt hơn, giúp chống uốn cong và cho phép bắn trong thời gian dài. Đặc biệt, nó có một loa che lửa mới giúp tránh bám bụi tốt hơn. Ngoài ra, hãng Colt còn thay đổi ốp lót tay của súng từ dạng tam giác sang dạng tròn với nhiều vân giúp cầm nắm dễ dàng hơn. Đặc biệt, M16A2 không còn chế độ bắn tự động mà thay vào đó là điểm xạ loạt 3 viên. Được thông qua và sử dụng vào đầu những năm 1980. M16A2 còn là tiền đề để hãng Colt thiết kế khẩu M4A1 danh tiếng của họ
M16A3
Cải tiến từ M16A2 với chức năng chọn chế độ bắn: tự động, bán tự động và khoá an toàn. Được sử dụng với số lượng nhỏ, chủ yếu trong một số lực lượng của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.
M16A4
Phiên bản cuối cùng của dòng M16, được chia thành hai loại chính với các chế độ bắn khác nhau. Phiên bản có số hiệu R0901/ NSN 1005-01-383-2872 có 3 chế độ: khóa an toàn, bán tự động và tự động hoàn toàn. Còn phiên bản R0905 có 3 chế độ là: khóa an toàn, bán tự động và loạt 3 viên. Phiên bản này được nhận xét là tốt nhất trong dòng súng M16 với khả năng tản nhiệt tốt hơn và giảm tỉ lệ bị kẹt đạn đi rất nhiều lần so với các phiên bản trước. Ngoài ra, Colt đã gỡ bỏ quai xách đặc trưng phía bên trên thân súng và thay vào đó là hệ thống ray Picatinny hoàn chỉnh, giúp súng có khả năng gắn được nhiều loại kính ngắm hơn.
Các quốc gia sử dụng

M16 là súng trường được sản xuất phổ biến thứ hai ( sau AK-47 ) trên thế giới. Hiện tại, M16 đang được sử dụng bởi 15 quốc gia NATO và hơn 80 quốc gia trên toàn thế giới. Nhiều công ty ở Hoa Kỳ, Canada và Trung Quốc đã sản xuất hơn 8.000.000 khẩu súng trường của tất cả các biến thể M16. Khoảng 90% trong số chúng vẫn đang được sử dụng hết sức rộng rãi. M16 đã thay thế súng trường M14 và súng M2 Carbine làm súng trường bộ binh tiêu chuẩn của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, mặc dù M14 vẫn được sử dụng hạn chế, chủ yếu là hỗ trợ trong chiến đấu và sử dụng trong các nghi lễ.
Khoảng 8 triệu khẩu M16 thuộc mọi phiên bản đã được sản xuất và bán cho nhiều lực lượng, đã hoặc đang là súng trường tấn công tiêu chuẩn của 10 nước:
Liên Hợp Quốc
Afghanistan: Lực lượng Taliban sử dụng súng trường M16A2 và M16A4 trước đây được cung cấp cho Quân đội Quốc gia Afghanistan. Cũng được sử dụng với Tiểu đoàn Badri 313.
NATO: 15 quốc gia trong khối NATO sử dụng.
Hoa Kỳ: Tự sản xuất với các phiên bản XM16E1, M16A1, M16A2, M16A3, M16A4, M4A1.[85]
Albania
Antigua và Barbuda
Israel: M16A1/M16A2E3
Vatican: Để bảo vệ Tòa Thánh Vatican và chịu trách nhiệm bảo vệ Đức Giáo Hoàng
Việt Nam: Thu được từ miền Nam Việt Nam sau Chiến tranh Việt Nam. Hơn 946.000 khẩu M16 đã bị bắt chỉ riêng trong năm 1975. XM16E1. M16A1 đã qua sử dụng.
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam: Tịch thu rất nhiều XM16E1 và M16A1 của quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam: Tịch thu từ tay của Quân đội Mỹ lẫn Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.
Nhật Bản: M16A1 được Trung đoàn bộ binh Tập đoàn quân phía Tây sử dụng cùng với Type 89 Battle Rifle.
Ý
Ba Lan
Thụy Điển
Đan Mạch
Na Uy
Iceland
Luxembourg
Syria
Iraq M16A2/A4
Libya
Iran
Kurdistan
Ả Rập Xê Út
Ai Cập
Argentina[86]
Ấn Độ[87]
Bồ Đào Nha Một số lượng nhỏ M16A2 được sử dụng bởi Đội tác chiến đặc biệt của Hải quân Bồ Đào Nha
Bahrain[88]
Bangladesh[89]
Barbados[87]
Belize[87]
Nam Sudan
Sudan
Bolivia[87]
Brazil[87]
Brunei M16A2 được Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Brunei sử dụng làm súng trường tiêu chuẩn của họ.[87]
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất[87]
Nga Tịch thu từ tay của các nhóm Phiến quân Syria
Lào
Campuchia:[90][91] Sử dụng mẫu M16A1
Cameroon[87]
Canada C7 và C8[92]
México[87]
Chile[87]
Costa Rica[93]
Cộng hòa Dân chủ Congo[90]
Cộng hòa Dominica[87]
Đông Timor[94]
Ecuador[87]
El Salvador[87]
Estonia[95]
Hawaii
Fiji[87]
Gabon[87]
Ghana[87]
Grenada[87]
Guatemala[87]
Hà Lan C7 và C8[92]
Haiti[90]
Hàn Quốc: Trong Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã cung cấp 27.000 khẩu súng trường M16 cho Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc tại Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra, 600.000 khẩu M16A1 (Colt Model 603K) đã được sản xuất theo giấy phép của Daewoo Precision Industries với các đợt giao hàng từ năm 1974 đến năm 1985. Đơn vị KATUSA (Tăng cường Hàn Quốc cho Quân đội Hoa Kỳ) phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ sử dụng M16A2.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên M16A1 (có thể là bản sao không được cấp phép) được sử dụng bởi lực lượng đặc nhiệm của KPA. Được sử dụng trong sự cố Gangneung năm 1996.
Chile
Honduras[96]
Hy Lạp[87]
IndonesiaM16A1[87]
Singapore Biến thể địa phương của M16A1 (M16S1) được ST Kinetics sản xuất theo giấy phép.
Iraq[97]
Jamaica[87]
Jordan[87]
Lesotho[87]
Liban[90][98]
Litva[99]
Malaysia[87]
Maroc[87]
México[87]
Monaco[100]
Nam Phi[87]
Liberia[87]
Kenya[87]
Nepal[101]
New Zealand[87]
Nicaragua[87]
Nigeria[87]
Oman[87]
PakistanM16A1[102]
Panama[87]
Peru[87]
Pháp Được sử dụng bởi các lực lượng chống khủng bố và hoạt động đặc biệt[87]
Philippines: Được sản xuất theo giấy phép của Elisco Tool and Manufacturing. M16A1 và M653P đang được sử dụng. Được bổ sung trong Lực lượng Đặc biệt bởi M4 carbine.[87]
Gambia
Qatar[87]
Sénégal[103]
Singapore M16S1 [90]
Somalia[87]
Sri Lanka[104]
Thái Lan M16A1/A2/A4. Một biến thể của bản sao XM177 được gọi là carbine Loại 49 (ปลส.49) Được sử dụng trong cuộc nổi dậy ở Nam Thái Lan[87]
Tunisia M16A2/A4
Thổ Nhĩ Kỳ[87] M16A1/A2/A4
Trung Quốc Sản xuất M16A1 với phiên bản Norinco CQ.
Myanmar: M16S1 do Chartered Industries của Singapore sản xuất được cung cấp bí mật vi phạm thỏa thuận cấp phép với Colt.[87]
Đài Loan M16A1, cũng như bản địa Type 65/65K1/65K2, Type 86 và Type 91 (với hệ thống pít-tông khí kiểu AR-18).
Nam Phi Được Lực lượng Đặc nhiệm sử dụng. Có khả năng nhận được từ hàng lưu kho của Ma-rốc.
Tunisia[87]
Úc[105]
Ukraine
Uganda[87]
Uruguay[87]
New Zealand: Được thay thế vào năm 1988 bởi Steyr AUG, đã được thay thế bằng biến thể M16 không phải Colt vào năm 2016.
Hồng Kông
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Một trong những khách hàng quân sự đầu tiên là Vương quốc Anh đã mua những khẩu AR-15 đầu tiên để sử dụng trong chiến tranh rừng rậm trong cuộc đối đầu Indonesia-Malaysia. Biến thể Colt Canada C8 (L119A1/L119A2) được sử dụng bởi các Đơn vị Bảo vệ Cận vệ của Cảnh sát Quân sự Hoàng gia. Lữ đoàn đổ bộ đường không số 16, Lực lượng Đặc niệm Vương quốc Anh và Nhóm Bảo vệ Hạm đội Biệt kích 43 Thủy quân lục chiến Hoàng gia[106]
Cùng hơn 80 quốc gia khác trên thế giới.
Quốc gia cũ từng sử dụng
Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan: Súng trường phát hành tiêu chuẩn của Quân đội Quốc gia Afghanistan. Các biến thể Colt Canada C7 cũng được đưa vào phục vụ hạn chế.
Việt Nam Cộng hòa: 6.000 M16 và 938.000 M16A1, 1966–1975
Vương quốc Lào: Nhận được từ chính phủ Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam và Nội chiến Lào
Hồng Kông thuộc Anh: Biến thể M16A2. Được sử dụng bởi Trung đoàn Hoàng gia Hồng Kông.
Úc: M16A1 được giới thiệu trong Chiến tranh Việt Nam và được thay thế bởi F88 Austeyr vào năm 1989.
Phiến quân khủng bố
ISIL
Nhóm Maute
Bangsamoro Islamic Freedom Fighters
NPA
Remove ads
Chú thích
Liên kết ngoài
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads
