From Wikipedia, the free encyclopedia
United States Naval Special Warfare Development Group (Liên đoàn Phát triển Chiến Tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ/Nhóm Triển khai Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ) hay gọn hơn NSWDG hay DEVGRU, còn được biết đến bằng tên cũ SEAL Team 6 (SEAL Đội 6) là tên của đội đột kích chống khủng bố của Hải quân Hoa Kỳ, nổi tiếng nhất với vụ tiêu diệt thành công trùm khủng bố Osama Bin Laden. DEVGRU là Đơn vị Nhiệm vụ Đặc biệt (Special Mission Unit) của Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đặc biệt Hoa Kỳ (JSOC), cùng với Lực lượng Delta, Đại đội Trinh sát Trung đoàn Biệt động quân 75 (75th Ranger Regiment - Regimental Reconnaissance Company) và Ban Hỗ trợ Tình báo (Intelligence Support Activity) của Lục quân, Phi đội Tác chiến Đặc biệt 24 (24th Special Tactics Squadron) của Không quân.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Liên đoàn Phát triển Chiến tranh Đặc biệt Hải quân | |
---|---|
Trái: Phù hiệu cũ của SEAL Team 6 trước năm 1987. Phải: Phù hiệu của NSWDG sau năm 1987 | |
Hoạt động | 11/1980 đến nay |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Quân chủng | Hải quân Hoa Kỳ |
Phân loại | Lực lượng đặc biệt Người nhái |
Chức năng | Biệt kích bậc 1 Trinh sát đặc biệt |
Quy mô | Năm 2014: 1787 người
|
Bộ phận của | Bộ tư lệnh Chiến dịch Đặc biệt Quân đội quân Hoa Kỳ |
Bộ chỉ huy | Dam Neck Annex, Naval Air Station Oceana, Virginia Beach, Virginia |
Tên khác | DEVGRU, SEAL Team 6, Task Force Blue, NSWDG |
Tham chiến | SEAL Team Six
DEVGRU
|
SEAL Team 6 được thành lập sau thất bại trong Chiến dịch Eagle Claw. Sau thất bại đó, theo đề nghị của Đại tá Charles Beckwith, tư lệnh Lực lượng Delta., Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đặc biệt Liên quân (Joint Special Operations Command), và một đơn vị Navy SEAL chuyên công tác chống khủng bố sẽ được thành lập để thực hiện nhiệm vụ trên biển, phối hợp với Delta. Một sĩ quan SEAL là Trung tá Richard Marcinko, tư lệnh SEAL Đội 2, đã nhận lấy trọng trách đó theo lệnh của Tham mưu trưởng Hải quân, và thành công đề xuất việc thành lập một đơn vị chống khủng bố chuyên biệt của Hải quân. Richard Marcinko cũng là một trong 2 sĩ quan Hải quân cho một ban lãnh đạo tác chiến của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ Đội Tác chiến Chống Khủng bố (Terrorist Action Team), có nhiệm vụ lên kế hoạch giải cứu con tin Mỹ ở Iran. Khi đó, có hai đơn vị SEAL, SEAL Đội 1 ở Coronado, California và SEAL Đội 2 ở Virginia Beach, Virginia. Trước khi Chiến dịch Eagle Claw diễn ra, cả 2 đơn vị đã bắt đầu công tác đào tạo chống khủng bố. Toàn bộ 12 trung đội (platoon) của SEAL Đội 1 đã hoàn thành công tác đào tạo chống khủng bố trước khi Chiến dịch Eagle Claw diễn ra. SEAL Đội 2 dành ra 2 trung đội đảm nhiệm công tác chống khủng bố, gọi là Mobility 6. Tháng 10/1980, SEAL Đội 6 được thành lập và Mobility 6 bị giải tán. Marcinko tuyển người từ các đội SEAL, các Đội Bộc phá Người nhái (Underwater Demolition Team), và Đội Thuyền Đặc biệt (Special Boat Team), và đặc biệt là nhiều người từ Mobility 6 thuộc SEAL Đội 2 do Marcinko lãnh đạo và đã được đào tạo chống khủng bố, nhờ thế SEAL Đội 6 được tuyên bố sẵn sàng chiến đấu chỉ sau 6 tháng.[1]
Trong thập niên 1980, các chiến dịch tiêu biểu của SEAL Đội 6 bao gồm giải cứu Thống đốc Sir Paul Scoon khỏi Grenada và chiếm đài phát thanh trong Chiến dịch Urgent Fury. Năm 1983, Marcinko bị buộc thôi nhiệm sở, và ông cùng nhiều người trong SEAL Đội 6 thành lập Red Cell, đơn vị đặc nhiệm vào vai khủng bố để kiểm tra mức độ an ninh của các căn cứ quân sự Mỹ. Năm 1987, SEAL Đội 6 bị giải tán, và Liên đoàn Phát triển Chiến tranh Đặc biệt Hải quân được thành lập như là đơn vị kế thừa.[1]
DEVGRU thuộc biên chế của Bộ Tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (NAVSPECWARCOM) nhưng quyền kiểm soát tác chiến trực thuộc Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đặc biệt Liên quân (JSOC). DEVGRU trong biên chế NAVSPECWARCOM tương đương cấp của một Liên đoàn Chiến tranh Đặc biệt Hải quân (Naval Special Warfare Group) trực thuộc NAVSPECWARCOM, với tư lệnh cấp Đại tá (bậc lương O-6). Theo báo cáo năm tài khóa 2014, DEVGRU có khoảng 1787 nhân viên, với 1342 nhân viên quân sư và 445 nhân viên dân sự, trong số nhân viên quân sự, 300 người là đặc công và 50-60 người là sĩ quan đặc công.[2]
DEVGRU được chia thành các Chiến đoàn Phát triển và Đánh giá Chiến thuật (Tactical Development and Evaluation Squadron, TACDEVRON) tương đương cấp của một Đội SEAL hay Đội Thuyền Đặc biệt, với mã số, màu, biểu tượng và biệt danh riêng:[3][4]
Mỗi chiến đoàn công kích được lãnh đạo bởi một Trung tá (O-5). Mỗi chiến đoàn được chia thành 3 trung đội (troop), mỗi trung đội được lãnh đạo bởi một Thiếu tá (O-4), và được cố vấn bởi một thường vụ, cấp bậc Thượng sĩ (E-9) hay Trung sĩ nhất (E-8). Một trung đội bao gồm các đội nhỏ hơn, với đội trưởng là Thượng sĩ (E-9) hay Trung sĩ nhất (E-8), cấp phó thường vụ là Trung sĩ nhất (E-8) hay Trung sĩ (E-7), và các thành viên khác từ cấp Trung sĩ (E-7) Hạ sĩ nhì (E-5), mỗi người có vai trò riêng.[5] Các chiến đoàn được hỗ trợ bởi các chuyên viên viễn thông liên lạc, mật mã, công nghệ thông tin, rà phá bom mìn, quân khuyển, tình báo, hậu cần, phòng chống vũ khí hủy diệt hàng loạt và đôi khi là điều khiển không lưu và không kích từ Phi đội Tác chiến Đặc biệt 24 của Không quân Hoa Kỳ.
Ứng viên DEVGRU được tuyển mộ thông qua việc nộp hồ sơ ứng tuyển và khóa huấn luyện "Green Team".
Mọi ứng viên ứng tuyển vào DEVGRU đều đến từ Bộ Tư lệnh Chiến tranh Đặc biệt Hải quân Hoa Kỳ (United States Naval Special Warfare Command/NAVSPECWARCOM) hay trong Hải quân như các đặc công hải quân/người nhái SEAL từ các đội SEAL (SEAL Team) hay Đội Phương tiện Vận chuyển SEAL (SEAL Delivery Vehicle Team), thuyền viên chiến dịch đặc biệt (Special Warfare Combatant-craft Crewman) từ Đội Thuyền Đặc biệt (Special Boat Team, thuộc NAVSPECWARCOM), các công binh rà phá bom mìn (EOD) hay quân y thủy bộ trinh sát (Special Amphibious Reconnaissance Corpsman) Hải quân công tác tại các đơn vị trinh sát và biệt kích Thủy quân lục chiến. Sau khi nộp hồ sơ, thông tin cá nhân và ảnh của họ sẽ được dán trên tường ở hành lang tại tổng hành dinh DEVGRU để từng thành viên DEVGRU quyết định cho gia nhập đơn vị hay không.[6]
Nếu ứng viên được chấp thuận, họ sẽ góp mặt vào khóa huấn luyện "Green Team" kéo dài hơn nửa năm, tương tự OTC của Delta và chỉ diễn ra một lần trong năm, nơi thường có 50% binh sĩ thất bại. DEVGRU được huấn luyện sâu hơn đơn vị bạn là Delta về các hoạt động tác chiến trên biển và bơi lặn do đặc thù của hải quân.[6] Nội dung huấn luyện bao gồm chiến đấu trong môi trường đô thị, cận chiến trong nhà tập bắn, tiêu diệt mục tiêu khủng bố bằng súng ngắn và tiểu liên, huấn luyện nhiệm vụ công kích và lên kế hoạch tác chiến, điều phối, định hướng và phương án tiếp cận và rút đi, tác chiến môi trường băng tuyết, nhảy dù tầm cao, lái xe nâng cao, đánh chiếm các mục tiêu trên biên như giàn khoan dầu và giải cứu tàu bị cướp biển tấn công, leo núi, chiến đấu trên đất liền, bắn tỉa, bộc phá, kỹ năng sinh tồn, kỹ năng do thám và trinh sát, mở khóa xe và két.[3] Các ứng viên phải thực hiện hết sức, và huấn luyện viên sẽ đánh giá các ứng viên trong suốt khóa huấn luyện Green Team. Sau khi Green Team kết thúc, các ứng viên được chọn sẽ gia nhập các Chiến đoàn, còn các ứng viên không được chọn sẽ quay về đơn vị SEAL cũ.
Tương tự như Lực lượng Delta, DEVGRU dùng đạn thật
Danh sách này là các vũ khí đã được DEVGRU sử dụng, nhưng không phải là danh sách toàn bộ trang bị do tính chất bí mật của đơn vị
Ngoài ra, DEVGRU còn sử dụng các loại shotgun, tên lửa, súng phóng lựu và xe theo biên chế
Từ sau sự kiện tiêu diệt bin Laden, DEVGRU nói riêng và cộng đồng SEAL Hải quân và NAVSPECWARCOM nói chung trở thành đề tài ăn khách trong văn hóa đại chúng, với nhiều bộ phim và sách về DEVGRU và SEAL được phát hành, với các cựu thành viên DEVGRU và SEAL trở thành tác giả sau khi giải ngũ.
Tuy nhiên, điều này cũng tạo tiếng xấu cho DEVGRU và SEAL, với công chúng và các thành viên, rằng DEVGRU và SEAL hám danh lợi mà bỏ quên nguyên tắc kín đáo về danh tính và hoạt động của đơn vị, đặc biệt trong kỷ nguyên internet.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.