From Wikipedia, the free encyclopedia
Hách Xá Lý (tiếng Trung: 赫舍里; Pinyin: Hesheli; Manchu: ᡥᡝᠰᡝᡵᡳ Hešeri), là một họ người Mãn thuộc Kiến Châu Nữ Chân. Nguồn gốc họ này xuất phát từ bộ tộc Hách Xá Lý với địa bàn sinh sống chủ yếu thuộc khu vực Cát Lâm và Liêu Ninh của Trung Quốc ngày nay. Dòng họ này đã từng là một trong những thị tộc lớn mạnh và quan trọng nhất vào những năm đầu nhà Thanh, chỉ xếp sau hoàng tộc Ái Tân Giác La, có liên quan chặt chẽ với nhau từ cuộc hôn nhân của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu.[1][2] Sức mạnh của thị tộc đạt tới đỉnh điểm quyền lực trong giai đoạn của Sách Ni và con thứ là Sách Ngạch Đồ (từ khoảng 1650-1705). Tuy nhiên ảnh hưởng quyền lực khi Sách Ngạch Đồ chết, nhưng tộc Hách Xá Lý vẫn giữ một vai trò chính trị trong triều đình cho đến khi nhà Thanh sụp đổ vào đầu năm 1912.
Thị tộc Hách Xá Lý lần đầu tiên được ghi chép trong "Ba mươi họ thường thấy ở người Nữ Chân" vào khoảng cuối triều đại nhà Đường (khoảng 800-850), và được cho là bắt nguồn từ tên của một dòng sông linh thiêng (šeri; có nghĩa là "suối nguồn" trong tiếng Mãn Châu). Ngoài ra, một số người cho rằng cái tên này có thể xuất phát từ đó của một tộc cổ. Trong suốt triều đại nhà Đường, tộc Hách Xá Lý sống ở vùng biên ngoại phía bắc Trung Quốc. Căn cứ Thanh triều thông điển, phần Thị tộc lược·Mãn Châu Bát Kỳ tính (清朝通典·氏族略·满洲八旗姓), Hách Xá Lý thị, lại có thể gọi Hột Thạch Liệt thị (纥石烈氏), Hà Xá Lý thị (何舍里氏), Hạ Xá Lý thị (贺舍里氏), là một trong những dòng họ xưa nhất của người Nữ Chân. Đến thời nhà Kim, xưng Nữ Chân Hột Thạch Liệt bộ. Tổ tiên Hách Xá Lý thị là người của bộ tộc Hột Thạch Liệt, lấy bộ tộc làm họ, cũng xưng Hách Xá bộ, thế cư Điền Anh Ngạch (都英额; nay là vùng Thanh Nguyên, Phủ Thuận, Liêu Ninh), Cáp Đạt (nay là Tây Phong, Thiết Lĩnh),....
Khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích chinh phục các bộ tộc Mãn Châu, hầu hết các bộ lạc thuộc bộ tộc Hách Xá Lý đều quy thuận. Khi chế độ Bát kỳ được thành lập, các bộ lạc thị tộc Hách Xá Lý đều được phiên vào Chính hoàng kỳ cùng với Tương hoàng kỳ, là những kỳ tin cậy nhất của Đại hãn. Ảnh hưởng của họ tộc thị tộc đạt tới đỉnh cao từ sự tin cậy của các hoàng đế Mãn Thanh với Sách Ni và con thứ là Sách Ngạch Đồ, đặc biệt là thông qua cuộc hôn nhân của con gái của Cát Bố Lạt (con trưởng của Sách Ni) với hoàng đế Khang Hy.
Sau Cách mạng Tân Hợi năm 1911 và sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912, đại đa số người họ tộc Hách Xá Lý từ bỏ họ tộc Mãn Châu và đã đổi sang các họ giống người Hán. Các họ Hán phổ biến được đổi từ họ tộc Hách Xá Lý như từ Hách (hè/赫) sang Hà (hé/何) (thường được gọi là Ho ở Hong Kong và những khu vực sử dụng tiếng Quảng Đông); và một thiểu số hơn đổi thành các họ Cao (Gao/高), Khang (Kang/康), Trương (Zhang/张), Lô (Lu/芦), Hạ (He/贺), Sách (Suo/索), Anh (Ying/英), Hác (Hao/郝), Hắc (Hei/黑), Phổ (Pu/普), Lý (Li/李) hay Mãn (Man/满).
Trong lịch sử 119 năm của triều đại Nhà Kim, có đến 52[3] người có sức mạnh ảnh hưởng đến triều đình. Họ tộc của họ được lưu giữ tại Kim sử với phiên âm Hột Thạch Liệt.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.