Hầu hết tất cả đồng minh của Hoa Kỳ đều được trang bị vũ khí Mỹ, bao gồm M1 Garand, M1 Carbine, M14 và M16. Ngoài ra, Úc và New Zealand sử dụng L1A1 7.62mm làm súng trường tiêu chuẩn, cùng với khẩu M16.
Năm 1969, quân đội Mỹ đã xác định được 40 loại súng trường/súng carbine, 22 loại súng máy, 17 loại súng cối, 20 súng trường không giật hoặc các loại ống phóng tên lửa, chín loại vũ khí chống tăng, và 14 vũ khí phòng không được sử dụng bởi quân đội mặt đất của tất cả các bên. Ngoài ra lực lượng của Mỹ có 24 loại xe bọc thép và pháo tự hành, và 26 loại pháo và ống phóng tên lửa.[4]
Qua 20 năm, tổng lượng vũ khí mà Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sử dụng nếu quy đổi thành tiền là khoảng 3,5 tỉ USD[5] Trong khi đó, tổng lượng vũ khí mà quân đội Mỹ sử dụng có giá trị khoảng 141 tỷ USD, cùng với 16 tỷ USD vũ khí mà Mỹ viện trợ cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tổng cộng là 157 tỷ USD (chưa kể khoản chiến phí của Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Thái Lan cũng do Mỹ chi trả)[6]
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ yếu sử dụng các loại vũ khí tịch thu (thường là do Mỹ sản xuất)[7] hoặc vũ khí thô sơ, tự chế (ví dụ như bản sao của súng tiểu liên Thompson[8] hay shotgun làm bằng ống thép mạ kẽm). Hầu hết những vũ khí bị tịch thu từ các tiền đồn của lực lượng dân quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa đều có sức phòng thủ yếu.[9]
Các lực lượng Quân Giải phóng chủ yếu trang bị vũ khí của Trung Quốc và Liên Xô và trong đó cũng có sử dụng rất nhiều vũ khí của Mỹ và trong đó có sử dụng vũ khí của Pháp, mặc dù một số đơn vị du kích Quân Giải phóng sử dụng vũ khí bộ binh phương Tây hoặc tịch thu từ các kho vũ khí của Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (như MAT-49), từ các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa hoặc thông qua mua bán bất hợp pháp.
Trong năm 1961 và 1962 chính quyền Kennedy được ủy quyền sử dụng hoá chất để tiêu diệt thảm thực vật và cây lương thực ở Miền Nam Việt Nam. Giữa năm 1961 và năm 1967, Không quân Mỹ đã rải xuống 12.000.000 US gallon chất diệt cỏ, chứa chất độc da cam (dioxin) trên 6.000.000 mẫu Anh (24.000km ²) tán lá, cây và cây lương thực, ảnh hưởng đến 13% đất đai của Miền Nam Việt Nam. Việc sử dụng thuốc diệt cỏ cũng được dùng để lái xe của dân thường đua vào khu vực kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa[10].
Năm 1997, một bài báo được xuất bản bởi Wall Street Journal báo cáo rằng nửa triệu trẻ em được sinh ra với dị tật liên quan đến dioxin, và những dị tật bẩm sinh ở Miền Nam Việt Nam đã gấp bốn lần những người ở Miền Bắc Việt Nam. Việc sử dụng chất độc da cam có thể đã trái với quy tắc quốc tế của chiến tranh lúc đó. Nó cũng lưu ý rằng rất có thể nạn nhân của một cuộc tấn công như vậy sẽ là trẻ em. Một nghiên cứu năm 1967 do cục Nông học của Hội đồng khoa học Nhật Bản đã kết luận rằng 3.800.000 mẫu Anh (15.000km ²) đất đã bị phá hủy, giết chết 1000 thường dân và 13.000 vật nuôi (chưa kể đến di chứng lâu dài).
M1917 - [[Súng ngắn ổ xoay .45 ACP[26] được sử dụng bởi các lực lượng Miền Nam Việt Nam]] và Hoa Kỳ trong đầu cuộc chiến cùng với Model 10 của Smith & Wesson. Súng ngắn trở nên nổi tiếng khi được sử dụng bởi Lính chuột cống.
M1 Garand - được sử dụng bởi binh sĩ VNCH và Hàn Quốc.[28]
M1, M1A1 và M2 Carbine - được sử dụng bởi Quân đội, Cảnh sát và An ninh VNCH, Hàn Quốc, Quân đội Hoa Kỳ và Lào do Hoa Kỳ cung cấp.
Súng trường M14 - được hầu hết quân đội Hoa Kỳ sử dụng từ giai đoạn đầu của cuộc chiến cho đến năm 1967–68, khi nó được thay thế bởi M16.
CAR-15 - biến thể carbine của M16 được sản xuất với số lượng rất hạn chế, được sử dụng trong các hoạt động đặc biệt từ rất sớm. Sau đó được thay thế bằng phiên bản nâng cấp XM177.
XM177 (Colt Commando)/GAU-5 - bản nâng cấp của CAR-15, được MACV-SOG, Không quân Hoa Kỳ và Quân đội Hoa Kỳ sử dụng nhiều.
Stoner 63 – được sử dụng bởi SEAL và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.
T233 - một bản sao của Heckler & Koch HK33, được chế tạo theo giấy phép của Harrington & Richardson và được sử dụng với số lượng nhỏ bởi các đội SEAL. Mặc dù H&R T223 nặng hơn 0,9 pound (0,41kg) so với M16A1 khi không có hộp đạn, tuy nhiên súng trường lại có hộp tiếp đạn bốn mươi viên và điều này khiến nó trở nên hấp dẫn đối với các binh sĩ SEAL.
XM16E1 và M16A1: phiên bản M-16 đầu tiên có vấn đề và được thay thế bằng M16A1. Sau năm 1968 đã được cấp cho lực lượng đặc biệt và sau đó bộ binh vào một hoặc hai năm sau đó.
Beretta M12 - được sử dụng bởi các đơn vị an ninh tại Đại sứ quán Hoa Kỳ với số lượng hạn chế.
Carl Gustav M/45 - được sử dụng bởi SEALs vào đầu cuộc chiến, nhưng sau đó được thay thế bởi Smith & Wesson M76 vào cuối những năm 1960. Một số lượng đáng kể cũng được sử dụng bởi Nam Việt Nam, và một số ít đã được sử dụng ở Lào bởi các cố vấn và binh sĩ Lào.
Smith & Wesson M76 - bản sao của Carl Gustaf m/45. Rất ít khẩu thực sự được chuyển đến lực lượng SEAL tại Việt Nam.
Súng tiểu liên F1 - thay thế Owen Gun của Úc.
M3 Grease Gun - súng tiểu liên tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, cũng được Nam Việt Nam sử dụng.
M50/55 Reising - một số ít khẩu đã được MACVSOG và các lực không chính huy khác sử dụng.
Madsen M/50 - được sử dụng bởi lực lượng Nam Việt Nam, do CIA cung cấp.
Súng tiểu liên MAS-38 - được sử dụng bởi dân quân Nam Việt Nam.
Súng tiểu liên MAT-49 - được sử dụng bởi dân quân Nam Việt Nam với số lượng hạn chế.
Súng tiểu liên MP-40 - được sử dụng bởi các lực lượng Nam Việt Nam, do CIA cung cấp.
Owen Gun - súng tiểu liên tiêu chuẩn của Úc trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, sau đó được thay thế bằng F1.
Súng tiểu liên Sten - được sử dụng bởi các lực lượng hoạt động đặc biệt của Hoa Kỳ, thường được gắn nòng giảm thanh.
Súng tiểu liên Sterling - được sử dụng bởi Không quân Hoàng gia Úc và các đơn vị hoạt động đặc biệt khác.
Uzi - được sử dụng bởi các lực lượng hoạt động đặc biệt và một số đơn vị Nam Việt Nam, được cung cấp từ Israel.
Súng tiểu liên PPSh-41, PPS-43, K43, K-50M... - được sử dụng bởi quân giải phóng Miền Nam Việt Nam, bị Hoa Kỳ và Đồng Minh tịch thu trong chiến đấu.
Shotgun
Shotgun được sử dụng làm vũ khí cá nhân để tuần tra trong rừng; các đơn vị bộ binh được TO&E (Table of Organization & Equipment). Shotgun không phải là vũ khí chung đối với tất cả lính bộ binh, nhưng đôi lúc nó được được sử dụng trong một số đơn vị, ví dụ như mỗi tiểu đội, v.v.
Ithaca 37 - shotgun nạp đạn kiểu bơm được sử dụng bởi Hoa Kỳ và QLVNCH.
Remington Model 10 - shotgun nạp đạn kiểu bơm được sử dụng bởi Hoa Kỳ.
Remington Model 11-48 - shotgun bán tự động được sử dụng bởi Quân đội Hoa Kỳ.
Remington Model 31 - shotgun nạp đạn kiểu bơm được sử dụng bởi Quân đội Hoa Kỳ, SEALs và QLVNCH.
Remington Model 870 - shotgun nạp đạn kiểu bơm được sử dụng bởi Thủy quân lục chiến, Quân đội và Hải quân Hoa Kỳ sau năm 1966.
Remington 7188 - shotgun chọn chế độ bắn, chỉ nằm ở giai đoan thử nghiệm do thiếu độ tin cậy. Được sử dụng bởi SEALs thuộc Hải quân Hoa Kỳ.
Savage Model 69E - shotgun nạp đạn kiểu bơm được sử dụng bởi Quân đội Hoa Kỳ.
Savage Model 720 - shotgun bán tự động.
Stevens Model 77E - shotgun nạp đạn kiểu bơm được sử dụng bởi các lực lượng Lục quân và Thủy quân lục chiến. Gần 70.000 khẩu Model 77E đã được quân đội mua để sử dụng ở Đông Nam Á vào những năm 1960. Súng cũng rất phổ biến với QLVNCH vì kích thước nhỏ của nó.
Stevens Model 520/620
Winchester Model 1912 - được sử dụng bởi Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.
L2A1 AR là phiên bản súng máy tự động của SLR L1A1 và được sử dụng bởi lực lượng ANZAC.
Súng máy hạng nhẹ FM 24/29 - được sử dụng bởi dân quân Miền Nam Việt Nam.
Súng máy RPD (và Kiểu 56) - tịch thu và được sử dụng bởi các đội trinh sát của Lực lượng tấn công cơ động, MAC-V-SOG và các lực lượng hoạt động đặc biệt khác. Súng cũng thường hay được chỉnh sửa, trong đó phổ biến nhất là cưa nòng súng.
Stoner M63a Commando & Mark 23 Mod.0 - được sử dụng bởi SEALS và được thử nghiệm bởi đội Recon.
M134 Minigun - súng máy 7.62mm gắn trên các phương tiện cơ giới (hiếm)., chủ yếu gắn trên máy bay trực thăng và máy bay trinh sát tầm thấp.
Súng máy hạng trung M1919 Browning (và các biến thể như M37) - súng máy gắn trên xe. [68] Trong khi đó, nó cũng được sử dụng bởi các lực lượng bộ binh miền Nam.
Sturmgewehr 44 - được Liên Xô viện trợ, là chiến lợi phẩm tịch thu của quân đội Phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), sử dụng hạn chế.
M1 Garand - súng trường bán tự động tịch thu từ Hoa Kỳ.
Súng trường MAS-49 - súng trường Pháp tịch thu từ Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
Súng trường nạp đạn bằng khóa nòng/súng trường thiện xạ
Mosin-Nagant - Súng trường/carbine nạp đạn bằng khóa nòng do Liên Xô và Trung Quốc cung cấp (phiên bản M91/44 được sử dụng phổ biến nhất). Ngoài ra phiên bản M91/30 được gắn kính ngắm PU 4x phục vụ cho mục đích bắn tỉa được Liên Xô viện trợ
Súng trường MAS-36 - tịch thu của quân đội viễn chinh Pháp trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954)
Lee-Enfield No4 - Được sử dụng bởi Quân Giải phóng, là chiến lợi phẩm từ quân Anh và Ấn Độ.
Súng trường Arisaka - được Quân Giải phóng sử dụng từ đầu cuộc chiến. (và 1 số phiên bản khác trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai bởi quân đội Nhật)
Súng trường Lebel M1886 - Được sử dụng trong các giai đoạn trước Chiến tranh Việt Nam, tịch thu từ thực dân Pháp
Dragunov SVD - Súng trường bắn tỉa bán tự động của Liên Xô, được sử dụng hạn chế, chủ yếu cho lực lượng bắn tỉa chuyên dụng.
M1903 Springfield - Được sử dụng bởi Quân Giải phóng phóng miền Nam Việt Nam., thông thường là bản M1903A3 gắn kính ngắm quang học dùng cho lực lượng bắn tỉa
Remington Model 10 - shotgun được sử dụng bởi Quân Giải phóng phóng miền Nam Việt Nam
Những loại súng trường cũ hoặc hiếm hơn thường được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉnh sửa lại vào đầu cuộc chiến: súng trường Gras được thay đổi để sử dụng loại đạn .410 bore trong khi súng carbine Destroyer được chỉnh sửa để sử dụng được hộp tiếp đạn của Walther P38.
Súng trường tự chế, thường là súng trường nạp đạn kiểu lò xo được chế tạo để trông giống như M1 Garand hoặc M1 Carbine, cũng được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sử dụng.
Tokarev SVT-40: được Liên Xô viện trợ, chủ yếu dành cho công an vũ trang biên phòng hoặc dân quân tự vệ, có bản gắn PU 4x dùng cho mục đích bắn tỉa (hạn chế).