Trà bơ
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trà bơ, hay còn được gọi là Bho jha (chữ Tạng: བོད་ཇ་; Wylie: bod ja, "Trà Tây Tạng"), cha süma (chữ Tạng: ཇ་སྲུབ་མ་; Wylie: ja srub ma, "Trà khuấy", tiếng Quan thoại: sūyóu chá (酥油茶, tô du trà), su ja (chữ Tạng: སུ་ཇ; Wylie: Suja, "trà khuấy") trong tiếng Dzongkha hoặc gur gur cha trong tiếng Ladakh) hay yak milk tea trong tiếng Anh là một loại thức uống của người dân vùng Himalaya ở Nepal, Bhutan, Pakistan (đặc biệt là ở Gilgit-Baltistan và phía Bắc Khyber Pakhtunkhwa), Afghanistan, Kazakhstan, Tajikistan, Đông Turkestan, Tây Tạng và các khu vực phía tây của Trung Quốc, Trung Á và vùng Caribe ngày nay. Theo truyền thống, nó được làm từ lá trà, bơ Yak, nước, và muối ăn, mặc dù bơ được làm từ sữa bò ngày càng được ưa chuộng do tính sẵn có và chi phí thấp hơn.[1][2][3][4][5]
Trà bơ đựng trong bát | |
Tên khác | Boe cha, cha süma, goor goor cha, cha suskan |
---|---|
Loại | Thức uống |
Xuất xứ | Nam Á và Tây Tạng |
Vùng hoặc bang | Nam/Trung/Đông Á và vùng Caribe |
Thành phần chính | Lá trà, bơ Yak, muối ăn |
Trà bơ có khả năng bắt nguồn từ vùng Himalaya, giữa Tây Tạng và tiểu lục địa Ấn Độ.