Trận Stalingrad
Trận đánh giành quyền kiểm soát thành phố Stalingard giữ Đức Quốc xã cùng đồng minh đánh với Liên Xô / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Stalingrad (23 tháng 8 năm 1942 – 2 tháng 2 năm 1943)[15][16][17] là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân Liên Xô tại thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở miền Tây Nam nước Nga. Trận đánh diễn ra từ tháng 8 năm 1942 đến ngày 2 tháng 2 năm 1943, và thường được đánh giá như một bước ngoặt quan trọng và bước đầu làm xoay chuyển cục diện trong chiến tranh thế giới thứ 2, thậm chí là một trong những bước ngoặt lớn nhất của nền quân sự thế giới trong thế kỷ XX.[18][19] Đây cũng là trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới1.250.000 [20][21]#, với tổng số thương vong của hai bên lên đến 2,1 - 2,5 triệu quân.
Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận.
|
Trận Stalingrad | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||
Trung tâm thành phố Stalingrad sau cuộc chiến | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Liên Xô | |||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
|
| ||||||
Thành phần tham chiến | |||||||
|
| ||||||
Lực lượng | |||||||
Ban đầu: 270.000 quân 3.000 pháo 500 xe tăng 600 máy bay, 1.600 tới giữa tháng 9[1] Vào thời điểm Hồng quân phản công: k. 1.040.000 quân[2][3] 500 xe tăng 10.250 pháo 732 (402 tác chiến) máy bay[4][5] |
Ban đầu: 187.000 quân 2.200 pháo 400 xe tăng 300 máy bay[6] Giai đoạn phản công: khoảng 1.143.000 quân 894 xe tăng và pháo tự hành 13.451 pháo 1.115 máy bay | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Nguồn 1: Khoảng 1,05 triệu thương vong trong chiến đấu, bao gồm: Quân Đức 147.200[7]-150.000[8][9][10][11] chết trên tổng số 285.000 chết, bị bắt, mất tích hoặc bị thương trong khu vực nội đô Stalingrad. Cộng thêm 300.000 thương vong khác cho các Cụm Tập đoàn quân A, B và Sông Don Tổng cộng là 585.000 thương vong Quân Ý, Hungary, Rumani và Hiwi: ~466.000 thương vong Nguồn 2: Tổng cộng 1,5 triệu thương vong[12] Thiệt hại về trang bị: Hơn 1.000 máy bay, 1.500 xe tăng, 6.000 đại bác bị phá hủy Hơn 167.000 súng các loại, 5.762 đại bác, 1.312 súng cối, 1.666 xe tăng, 261 xe thiết giáp, 744 máy bay, 80.438 xe tải, 10.679 xe môtô, 811 xe kéo, 3 tàu hỏa bọc thép bị Liên Xô thu giữ[13] |
478.741 chết 650.878 bị thương hoặc ốm 4.341 xe tăng bị phá hủy hoặc hư hại 15.728 đại bác và súng cối 2.769 máy bay chiến đấu [14] Tổng: 1.129.619 (bao gồm 950.000 thương vong trong chiến đấu) Ngoài ra có 40.000+ dân thường chết | ||||||
Số binh sĩ tham gia trận đánh này nhiều hơn hẳn các chiến dịch lớn khác trong Thế chiến 2, và nó cũng nổi tiếng vì mức độ ác liệt, tổn thất cực lớn cũng như thương vong cao về dân thường. Việc quân Đức thất bại trong việc đánh chiếm Stalingrad và việc Hồng quân Liên Xô phản công bao vây tiêu diệt 33 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 (Đức Quốc Xã) cùng với nhiều lực lượng khác của phe Trục xung quanh thành phố đã dẫn tới một trong những thất bại quan trọng nhất của phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Với chiến thắng điểm ngoặt này, Hồng quân đã cầm chắc lợi thế của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại[22]. Song, đây không chỉ là một bước ngoặt quyết định[18] và quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc mà còn cả của Chiến tranh thế giới thứ hai vì nó cùng với các chiến thắng ở Tunisia đã mang lại lợi thế và củng cố niềm tin thắng lợi cho toàn khối Đồng Minh[23], và bắt đầu cho giai đoạn Hồng quân Liên Xô chủ động tổ chức phản công trên toàn mặt trận và đóng góp một phần đáng kể vào sự đầu hàng của phát xít Đức hai năm rưỡi sau đó.
Đợt tấn công Stalingrad của phát xít Đức tiến triển nhanh vào giai đoạn nửa sau năm 1942 dưới sự hỗ trợ mạnh mẽ của không quân Đức Luftwaffe, những trận oanh tạc của lực lượng này đã biến phần lớn thành phố trở thành đống gạch vụn. Tuy nhiên quân Đức nhanh chóng bị sa lầy trong những trận đánh đẫm máu trên đường phố và trong từng căn nhà; và mặc dù đã kiểm soát 90% thành phố nhưng quân Đức đã hoàn toàn thất bại trong việc triệt tiêu những ổ đề kháng cuối cùng của Hồng quân Liên Xô vốn bám trụ một cách vững chắc và kiên cường bên bờ Tây sông Volga, trong lúc đó thì thời tiết khắc nghiệt của mùa đông nước Nga đang đến gần. Cho đến nay, vẫn chưa nhà sử học nào có thể lý giải tại sao Adolf Hitler-một nhà cầm quân đại tài lại có một quyết định nóng vội như vậy.
Ngày 19 tháng 11 năm 1942, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch Sao Thiên Vương, một đợt tấn công vu hồi gồm hai gọng kìm đánh vào cạnh sườn của Tập đoàn quân số 6 (Đức Quốc xã) đóng tại Stalingrad. Đòn tấn công này đã hoàn toàn thay đổi cục diện của trận đánh: cạnh sườn yếu kém của quân Đức nhanh chóng sụp đổ tan tành và 33 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 bị bao vây trong nội thành Stalingrad. Khi mùa đông đến, cái đói, cái lạnh khủng khiếp và những đợt tấn công liên tục của Hồng quân Liên Xô đã làm suy kiệt nhanh chóng lực lượng Đức, tuy nhiên mệnh lệnh không được đầu hàng của Hitler do niềm tin vào "sức mạnh ý chí", vấn đề danh dự nước Đức cùng các tính toán chiến lược khác đã buộc họ phải tiếp tục cố bám trụ mà không được tự ý phá vây. Vào tháng 12 năm 1942, phát xít Đức mở Chiến dịch Bão Mùa đông nhằm giải cứu đội quân bị vây nhưng thất bại, và theo sau đó là toàn bộ hệ thống tiếp vận cho khối quân bị vây cũng sụp đổ theo. Đầu tháng 2 năm 1943, sức kháng cự của khối quân này hoàn toàn bị dập tắt, và Tập đoàn quân số 6 bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 2 tháng 2 năm 1943.[24] Đối với nước Đức thất thế, trận thua này là tin xấu nhất của họ, và sau thất bại này họ sẽ còn thua trận Kursk với tầm quan trọng chẳng kém.[25][26] Về phần mình, Hồng quân Liên Xô đã phải chịu tổn thất rất lớn lao trong chiến thắng quyết định này.[18][26]