![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/7/78/Gold_lang_Thieu_Tri_CdM.jpg/640px-Gold_lang_Thieu_Tri_CdM.jpg&w=640&q=50)
Thiệu Trị
Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Nguyễn / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thiệu Trị (chữ Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là Nguyễn Phúc Dung (阮福曧), sau cải thành Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn nước Đại Nam. Ông kế vị vua cha là Minh Mạng, trị vì từ năm 1841 đến khi qua đời, tổng cộng gần 7 năm, được truy tôn miếu hiệu là Hiến Tổ (憲祖), thụy hiệu Thiệu Thiên Chương Hoàng Đế (紹天章皇帝). Trong thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là Thiệu Trị nên thường được gọi theo tên này.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị Đế 紹治帝 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Việt Nam | |||||||||||||||||
![]() Đồng xu vàng thời Vua Thiệu Trị | |||||||||||||||||
Hoàng đế Đại Nam ![]() | |||||||||||||||||
Trị vì | 11 tháng 2 năm 1841 – 4 tháng 11 năm 1847 (6 năm, 235 ngày) ![]() | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Minh Mạng | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Tự Đức | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 16 tháng 6 năm 1807 Huế, Đại Nam | ||||||||||||||||
Mất | 4 tháng 11, 1847(1847-11-04) (40 tuổi) Huế, Đại Nam | ||||||||||||||||
An táng | 24 tháng 6 năm 1848 Xương Lăng, Huế, Đại Nam | ||||||||||||||||
Hậu phi | Nghi Thiên Chương Hoàng hậu cùng nhiều phi tần khác | ||||||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Hoàng tộc | Hoàng triều Nguyễn | ||||||||||||||||
Hoàng gia ca | Đăng đàn cung | ||||||||||||||||
Thân phụ | Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa | ||||||||||||||||
Tôn giáo | Nho giáo, Phật giáo |
Thiệu Trị được sử sách mô tả là một hoàng đế thông minh, tận tụy chăm lo việc nước, uyên bác Nho học, yêu thích thơ ca. Nhưng Thiệu Trị không đưa ra cải cách gì mới, chỉ duy trì các chính sách hành chính, kinh tế, giáo dục, luật pháp, quân sự... từ thời Minh Mạng. Khi Thiệu Trị lên ngôi, chính sách bành trướng của Minh Mạng đã khiến lãnh thổ Đại Nam đạt đến mức rộng nhất trong lịch sử. Đại Nam đô hộ vùng đông nam Chân Lạp, đặt ra Trấn Tây Thành nhưng sự hà khắc của quan quân Việt đã gây nên sự căm phẫn và nổi dậy liên miên của người Chân Lạp, chi phí quân sự khiến quốc khố ngày càng cạn kiệt. Thiệu Trị phải xuống lệnh rút quân khỏi Trấn Tây Thành. Liên quân Xiêm La-Chân Lạp nhân đó đánh phá biên giới Tây Nam, Thiệu Trị sai nhiều tướng giỏi như Lê Văn Đức, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn,... mang quân chống lại. Quân Đại Nam đánh bại Xiêm La rồi truy kích vào đất Chân Lạp, nhưng đất Trấn Ninh thì đã bị Xiêm La chiếm mất. Năm 1845, Đại Nam và Xiêm La ký hòa ước chia nhau quyền bảo hộ Chân Lạp, vùng biên phía Tây cuối cùng đã được tạm yên, nhưng cũng từ đây quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt bị dừng lại, lãnh thổ Đại Nam cũng bị thu hẹp khá nhiều so với thời Minh Mạng.
Sau khi kết thúc chiến tranh với Xiêm La, Thiệu Trị phải đương đầu với mối đe dọa xâm lược càng lúc càng gia tăng từ Pháp. Đỉnh điểm là trận cửa biển Đà Nẵng (1847) khi quân thuyền Pháp bắn chìm 5 chiếc thuyền đồng của thủy quân Đại Nam. Thất bại này khiến hoàng đế hết sức tức giận và lo lắng, nhưng cho đến khi chết, Thiệu Trị và quần thần vẫn không thể tìm ra phương sách hợp lý để đối phó. 10 năm sau cái chết của Thiệu Trị (1858), Pháp nổ súng xâm lược Đại Nam, mở đầu thời kỳ Việt Nam bị Pháp đô hộ.