tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc về khoa học, giáo dục và văn hóa From Wikipedia, the free encyclopedia
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc, viết tắt UNESCO là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên Hợp Quốc, được thành lập vào năm 1945 nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh thế giới thông qua hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin.[1][2] UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên[3][4] và 12 quan sát viên. Trụ sở chính của tổ chức đặt tại Paris, Pháp. UNESCO có 53 văn phòng thực địa khu vực[5] và 199 ủy ban quốc gia để hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ toàn cầu của tổ chức.[6][7]
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization | |
---|---|
Biểu trưng | |
Cờ UNESCO | |
Loại hình | Tổ chức chuyên môn LHQ |
Tên gọi tắt | UNESCO |
Lãnh đạo | Audrey Azoulay |
Hiện trạng | Đang hoạt động |
Thành lập | 16 tháng 11 năm 1945 |
Trụ sở | Paris, Pháp |
Trang web | unesco.org |
Trực thuộc | Liên Hợp Quốc |
UNESCO được thành lập vào năm 1945 với tư cách là tổ chức kế thừa Ủy ban Quốc tế về Hợp tác Trí tuệ của Hội Quốc Liên.[8] Điều lệ của tổ chức xác định các mục tiêu, cơ cấu quản trị và khuôn khổ hoạt động của cơ quan này.[9] Nhiệm vụ sáng lập của UNESCO, được định hình bởi Chiến tranh thế giới thứ hai, là thúc đẩy hòa bình, phát triển bền vững và nhân quyền bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia.[9] UNESCO theo đuổi mục tiêu này thông qua năm lĩnh vực chương trình chính: giáo dục, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội/nhân văn, văn hóa và truyền thông/thông tin. UNESCO tài trợ các dự án nhằm nâng cao khả năng đọc viết, cung cấp đào tạo kỹ thuật và giáo dục, thúc đẩy khoa học, bảo vệ truyền thông độc lập và tự do báo chí, bảo tồn lịch sử khu vực và văn hóa, đồng thời thúc đẩy sự đa dạng văn hóa.[10][11][12]
Với vai trò là trung tâm của văn hóa và khoa học thế giới, UNESCO đã mở rộng hoạt động của mình trong những năm qua. Tổ chức hỗ trợ dịch thuật và phổ biến văn học thế giới, giúp thành lập và bảo vệ các Di sản Thế giới có tầm quan trọng về văn hóa và tự nhiên, nỗ lực thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số trên toàn cầu và tạo ra các xã hội tri thức toàn diện thông qua thông tin và truyền thông.[13] UNESCO đã khởi xướng một số sáng kiến và phong trào toàn cầu, chẳng hạn như Giáo dục cho mọi người, để thúc đẩy hơn nữa các mục tiêu cốt lõi của mình
UNESCO được điều hành bởi Đại hội đồng, gồm các đại diện của tất cả các quốc gia thành viên và quan sát viên. Hội nghị đại biểu họp hai năm một lần để thông qua chương trình và ngân sách của UNESCO. Hội nghị cũng bầu các thành viên của Ban chấp hành, cơ quan quản lý công việc của UNESCO và bổ nhiệm Tổng giám đốc, người đứng đầu UNESCO. UNESCO là thành viên của Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc,[14] một liên minh các cơ quan và tổ chức của Liên hợp quốc nhằm thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.
UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:
UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng, một Hội đồng Chấp hành và một Ban Thư ký. Đại hội đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng Chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên ứng cử; mỗi ủy viên của Hội đồng Chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng Chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.
Hiện UNESCO có 195 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng Chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.
Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu bang và các cơ quan phụ cần thiết khác.
Sứ mệnh hợp tác quốc tế của UNESCO có thể bắt nguồn từ một nghị quyết của Hội Quốc Liên vào ngày 21 tháng 9 năm 1921. Nghị quyết này đã bầu chọn một Ủy ban để nghiên cứu tính khả thi của việc các quốc gia tự do chia sẻ những thành tựu văn hóa, giáo dục và khoa học.[15][16] Cơ quan mới này, Ủy ban Hợp tác Trí tuệ Quốc tế (ICIC), được thành lập vào năm 1922[17] và có sự tham gia của những nhân vật nổi tiếng như Henri Bergson, Albert Einstein, Marie Curie, Robert A. Millikan và Gonzague de Reynold (do đó là một ủy ban nhỏ của Hội Quốc Liên chủ yếu tập trung vào Tây Âu[18]). Sau đó, Viện Hợp tác Trí tuệ Quốc tế (IIIC) được thành lập tại Paris vào tháng 9 năm 1924, để đóng vai trò là cơ quan thực thi cho ICIC.[19] Tuy nhiên, sự bùng nổ của Thế chiến II phần lớn đã cản trở công việc của các tổ chức tiền nhiệm này.[20] Đối với các sáng kiến tư nhân, Văn phòng Giáo dục Quốc tế (IBE) bắt đầu hoạt động như một tổ chức phi chính phủ phục vụ sự phát triển giáo dục quốc tế kể từ tháng 12 năm 1925[21] và gia nhập UNESCO vào năm 1969, sau khi thành lập một ủy ban chung vào năm 1952.
Sau khi Tuyên ngôn Atlantic và Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc được ký kết, Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục Đồng minh (CAME) bắt đầu họp tại London từ ngày 16 tháng 11 năm 1942 đến ngày 5 tháng 12 năm 1945. Ngày 30 tháng 10 năm 1943, nhu cầu về một tổ chức quốc tế được thể hiện trong Tuyên bố Moscow, được ký bởi Trung Quốc, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô. Trước đó, vào ngày 9 tháng 10 năm 1944, Hội nghị Dumbarton Oaks đã đưa ra các đề xuất về việc thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa. Sau đó, theo đề xuất của CAME và phù hợp với các khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế (UNCIO) được tổ chức tại San Francisco từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1945, Hội nghị Liên hợp quốc về thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa (ECO/CONF) đã được triệu tập tại London từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 11 năm 1945 với sự tham gia của 44 chính phủ. Ý tưởng thành lập UNESCO được Rab Butler, Bộ trưởng Giáo dục Vương quốc Anh, phát triển vào năm 1945.[22] Tại Hội nghị ECO/CONF, Hiến chương UNESCO đã được giới thiệu và ký kết bởi 37 quốc gia. Sau đó, Ủy ban Chuẩn bị đã được thành lập để chuẩn bị cho việc thành lập UNESCO.[23] Ủy ban này hoạt động từ ngày 16 tháng 11 năm 1945 đến ngày 4 tháng 11 năm 1946, khi Hiến chương UNESCO có hiệu lực với việc nộp phê chuẩn thứ hai mươi của một quốc gia thành viên.[24]
Hội nghị Đại hội đồng đầu tiên của UNESCO được tổ chức tại Paris từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 10 tháng 12 năm 1946. Tại hội nghị này, Julian Huxley đã được bầu làm Tổng Giám đốc UNESCO.[25] Đại tá Hoa Kỳ, hiệu trưởng đại học và nhà hoạt động dân quyền Blake R. Van Leer cũng tham gia hội nghị với tư cách là thành viên.[26] Hiến chương UNESCO được sửa đổi vào tháng 11 năm 1954, theo đó Hội nghị Đại hội đồng quyết định các thành viên của Ban Chấp hành sẽ là đại diện của chính phủ các quốc gia mà họ là công dân và sẽ không còn hành động với tư cách cá nhân như trước đây.[27] Sự thay đổi trong cơ chế quản trị này đã phân biệt UNESCO với tổ chức tiền thân của nó, ICIC, về cách các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực chuyên môn của tổ chức. Khi các quốc gia thành viên hợp tác cùng nhau theo thời gian để thực hiện sứ mệnh của UNESCO, các yếu tố chính trị và lịch sử đã định hình hoạt động của tổ chức, đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh, quá trình phi thực dân hóa và sự sụp đổ của Liên Xô.[28]
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của tổ chức là công tác chống phân biệt chủng tộc. Tổ chức đã ban hành nhiều tuyên bố có ảnh hưởng về chủng tộc, bắt đầu với Tuyên bố của các nhà nhân chủng học và các nhà khoa học khác vào năm 1950 và kết thúc với Tuyên bố năm 1978 về Chủng tộc và Định kiến về Chủng tộc.
Năm 1956, Nam Phi rút khỏi UNESCO vì cho rằng một số ấn phẩm của tổ chức này can thiệp vào vấn đề phân biệt chủng tộc của đất nước. Nam Phi gia nhập lại UNESCO vào năm 1994 dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela.[29]
Những hoạt động ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực giáo dục bao gồm một dự án thí điểm về giáo dục cơ bản tại Thung lũng Marbial, Haiti, bắt đầu vào năm 1947. Dự án này được tiếp nối bởi các phái đoàn chuyên gia đến các quốc gia khác, bao gồm, ví dụ, một phái đoàn đến Afghanistan vào năm 1949. Năm 1948, UNESCO khuyến nghị các quốc gia thành viên nên bắt buộc và phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí. Năm 1990, Hội nghị Thế giới về Giáo dục cho Tất cả, tại Jomtien, Thái Lan, đã phát động một phong trào toàn cầu nhằm cung cấp giáo dục cơ bản cho tất cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Mười năm sau, Diễn đàn Giáo dục Thế giới năm 2000 được tổ chức tại Dakar, Senegal, đã dẫn dắt các chính phủ thành viên cam kết đạt được giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người vào năm 2015.
Các hoạt động ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực văn hóa tập trung vào việc bảo tồn di sản văn hóa. Năm 1960, UNESCO đã khởi động Chiến dịch Quốc tế Cứu hộ Di tích Nubia để di dời Đền thờ Abu Simbel vĩ đại khỏi nguy cơ bị nhấn chìm bởi sông Nile sau khi xây dựng Đập Aswan. Chiến dịch này đã kéo dài 20 năm và thành công trong việc di dời 22 di tích và quần thể kiến trúc. Đây là chiến dịch đầu tiên và lớn nhất trong một loạt các chiến dịch bảo tồn di sản văn hóa của UNESCO, bao gồm Mohenjo-daro (Pakistan), Fes (Morocco), Kathmandu (Nepal), Borobudur (Indonesia) và Thành phòng thủ của Athens (Hy Lạp).[30] Công việc của tổ chức về di sản đã dẫn đến việc thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới vào năm 1972. Ủy ban Di sản Thế giới được thành lập vào năm 1976 và các di sản đầu tiên được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới vào năm 1978. Kể từ đó, các văn kiện pháp lý quan trọng về di sản văn hóa và sự đa dạng đã được các quốc gia thành viên UNESCO thông qua vào năm 2003 (Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể) và năm 2005 (Công ước bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa).
Cuộc họp liên chính phủ của UNESCO tại Paris vào tháng 12 năm 1951 đã dẫn đến việc thành lập Hội đồng Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu, tổ chức này chịu trách nhiệm thành lập Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) sau này, vào năm 1954.[31] Chương trình Khu vực hạn hán, 1948–1966, là một ví dụ khác về dự án lớn ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Năm 1968, UNESCO tổ chức hội nghị liên chính phủ đầu tiên nhằm mục đích dung hòa môi trường và phát triển, một vấn đề vẫn tiếp tục được giải quyết trong lĩnh vực phát triển bền vững. Kết quả chính của hội nghị năm 1968 là việc thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB) của UNESCO.[32] UNESCO đã được ghi nhận là tổ chức thúc đẩy sự phát triển của các cơ quan nghiên cứu khoa học quốc gia.[33]
Trong lĩnh vực truyền thông, UNESCO luôn đề cao "sự lưu thông tự do của các ý tưởng bằng lời nói và hình ảnh". Điều này xuất phát từ kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi kiểm soát thông tin là một yếu tố dẫn đến việc nhồi nhét tư tưởng cho dân chúng để xâm lược. Trong những năm ngay sau chiến tranh, UNESCO tập trung vào việc tái thiết và xác định nhu cầu về các phương tiện truyền thông đại chúng trên toàn thế giới. UNESCO bắt đầu tổ chức các chương trình đào tạo và giáo dục cho các nhà báo vào những năm 1950. Đáp lại những kêu gọi về một "Trật tự Thông tin và Truyền thông Thế giới Mới" vào cuối những năm 1970, UNESCO đã thành lập Ủy ban Quốc tế về Nghiên cứu Các vấn đề Truyền thông, tổ chức này đã cho ra đời Báo cáo MacBride năm 1980 (được đặt theo tên của chủ tịch ủy ban, người đoạt Giải Nobel Hòa bình Seán MacBride). Năm 1980, UNESCO thành lập Chương trình Phát triển Truyền thông Quốc tế (IPDC) để thúc đẩy sự phát triển của truyền thông ở các nước đang phát triển. Năm 1991, UNESCO đã thông qua Tuyên bố Windhoek về độc lập và đa nguyên của báo chí, dẫn đến việc Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố ngày 3 tháng 5, ngày thông qua Tuyên bố, là Ngày Tự do Báo chí Thế giới. Kể từ năm 1997, UNESCO đã trao Giải thưởng Tự do Báo chí Thế giới UNESCO / Guillermo Cano vào mỗi ngày 3 tháng 5.
UNESCO đã kết nạp Palestine trở thành thành viên vào năm 2011.[34][35] Các luật được thông qua tại Hoa Kỳ sau khi Palestine nộp đơn xin gia nhập UNESCO và WHO vào tháng 4 năm 1989[36][37] có nghĩa là Hoa Kỳ không thể đóng góp tài chính cho bất kỳ tổ chức Liên Hợp Quốc nào chấp nhận Palestine là thành viên chính thức.[38][39] Kết quả là, Hoa Kỳ đã rút lại nguồn tài trợ của mình, chiếm khoảng 22% ngân sách của UNESCO.[40] Israel cũng phản ứng trước việc Palestine được kết nạp vào UNESCO bằng cách đóng băng các khoản thanh toán của Israel cho UNESCO và áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Chính quyền Palestine,[41] tuyên bố rằng việc kết nạp Palestine sẽ gây bất lợi cho 'các cuộc đàm phán hòa bình tiềm tàng'.[42] Hai năm sau khi ngừng đóng hội phí cho UNESCO, Hoa Kỳ và Israel đã mất quyền bỏ phiếu của UNESCO vào năm 2013 mà không mất quyền được bầu; do đó, Hoa Kỳ đã được bầu làm thành viên của ban chấp hành cho giai đoạn 2016-2019.[43] Năm 2019, Israel rời khỏi UNESCO sau 69 năm là thành viên, với đại sứ Israel tại Liên Hợp Quốc Danny Danon viết: "UNESCO là cơ quan liên tục viết lại lịch sử, bao gồm cả việc xóa bỏ mối liên hệ của người Do Thái với Jerusalem ... nó bị các kẻ thù của Israel làm hư hỏng và thao túng ... chúng tôi sẽ không trở thành thành viên của một tổ chức cố tình hành động chống lại chúng tôi ".[44]
Tính đến tháng 2 năm 2024, UNESCO có 195 quốc gia thành viên và 12 quan sát viên[45]. Một số thành viên không phải là quốc gia độc lập và một số thành viên có Ủy ban Tổ chức Quốc gia bổ sung từ một số lãnh thổ phụ thuộc của họ.[46] Các quốc gia thành viên UNESCO là các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc (trừ Israel[47] và Liechtenstein), cũng như Quần đảo Cook, Niue và Palestine.[48][49] Hoa Kỳ và Israel đã rời UNESCO vào ngày 31 tháng 12 năm 2018,[50][51] nhưng Hoa Kỳ đã gia nhập lại vào năm 2023.[52][53]
UNESCO có quan hệ chính thức với 322 tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO).[54] Phần lớn số đó được UNESCO gọi là "operational", và một số chọn lọc là "formal".[55] Mức quan hệ cao nhất với UNESCO là "formal associate" và có 22 NGO như vậy[56].
Viết tắt | Tổ chức | Tên gốc |
---|---|---|
IB | Tú tài Quốc tế | International Baccalaureate |
CCIVS | Ủy ban Điều phối Dịch vụ Tự nguyện Quốc tế | Co-ordinating Committee for International Voluntary Service |
EI | Quốc tế Giáo dục | Education International |
IAU | Hiệp hội Quốc tế các trường Đại học | International Association of Universities |
IFTC | Hội đồng Điện ảnh, Truyền hình và Truyền thông nghe nhìn Quốc tế | International Council for Film, Television and Audiovisual Communication |
ICPHS | Hội đồng Quốc tế về Triết học và Nghiên cứu Nhân văn có Xuất bản Diogenes | International Council for Philosophy and Humanistic Studies which publishes Diogenes |
ICSU | Hội đồng Khoa học Quốc tế | International Council for Science |
ICOM | Hội đồng Bảo tàng Quốc tế | International Council of Museums |
ICSSPE | Hội đồng Khoa học Thể thao và Giáo dục Thể chất Quốc tế | International Council of Sport Science and Physical Education |
ICA | Hội đồng Lưu trữ Quốc tế | International Council on Archives |
ICOMOS | Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc tế | International Council on Monuments and Sites |
IFJ | Liên đoàn Quốc tế các Nhà báo | International Federation of Journalists |
IFLA | Liên đoàn các Hiệp hội và Tổ chức Thư viện Quốc tế | International Federation of Library Associations and Institutions |
IFPA | Liên đoàn các Hiệp hội Thơ Quốc tế | International Federation of Poetry Associations |
IMC | Hội đồng Âm nhạc Quốc tế | International Music Council |
IPA | Hiệp hội Cảnh sát Quốc tế | International Police Association |
INSULA | Hội đồng Khoa học Phát triển Đảo Quốc tế | International Scientific Council for Island Development |
ISSC | Hội đồng Khoa học Xã hội Quốc tế | International Social Science Council |
ITI | Viện Nhà hát Quốc tế | International Theatre Institute |
IUCN | Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế | International Union for Conservation of Nature |
IUTAO | Liên đoàn các Tổ chức và Hiệp hội Kỹ thuật Quốc tế | International Union of Technical Associations and Organizations |
UIA | Liên hiệp các Hiệp hội Quốc tế | Union of International Associations |
WAN | Hiệp hội Báo chí thế giới | World Association of Newspapers |
WFEO | Liên đoàn Thế giới các Tổ chức Kỹ thuật | World Federation of Engineering Organizations |
WFUCA | Liên đoàn Thế giới các Câu lạc bộ, Trung tâm và Hiệp hội UNESCO | World Federation of UNESCO Clubs, Centres and Associations |
Các viện và trung tâm
Viết tắt | Tên | Tên gốc | Vị trí |
---|---|---|---|
IBE | Văn phòng Giáo dục Quốc tế | International Bureau of Education | Genève[57] |
UIL | Viện UNESCO về Học tập Suốt đời | UNESCO Institute for Lifelong Learning | Hamburg[58] |
IIEP | Học viện Quốc tế UNESCO về Hoạch định Giáo dục | UNESCO International Institute for Educational Planning | Paris (headquarters) and Buenos Aires (regional office)[59] |
IITE | Viện UNESCO về Công nghệ Thông tin trong Giáo dục | UNESCO Institute for Information Technologies in Education | Moskva[60] |
IICBA | Học viện Quốc tế UNESCO về Xây dựng Năng lực ở châu Phi | UNESCO International Institute for Capacity Building in Africa | Addis Ababa[61] |
IESALC | Học viện Quốc tế UNESCO về Giáo dục Đại học ở Mỹ Latinh và vùng Caribê | UNESCO International Institute for Higher Education in Latin America and the Caribbean | Caracas[62] |
UICTVET | Trung tâm Quốc tế UNESCO-UNEVOC về Giáo dục và Đào tạo về Kỹ thuật và Dạy nghề | UNESCO-UNEVOC International Centre for Technical and Vocational Education and Training | Bonn[63] |
CEPES | Trung tâm UNESCO châu Âu về Giáo dục Đại học | UNESCO European Centre for Higher Education | Bucharest[64] |
UNESCO-IHE | Viện UNESCO-IHE Giáo dục về Nước | UNESCO-IHE Institute for Water Education | Delft[65] |
ICTP | Trung tâm Quốc tế về Vật lý Lý thuyết | International Centre for Theoretical Physics | Trieste[66] |
UIS | Viện Thống kê UNESCO | UNESCO Institute for Statistics | Montreal[67] |
UNESCO VG | Trung tâm UNESCO British Virgin Islands | UNESCO Centre British Virgin Islands | BVI official site Lưu trữ 2015-04-06 tại Wayback Machine |
UNESCO-CEP | Trung tâm UNESCO Văn hóa Giáo dục và Đào tạo | The UNESCO Center for Culture and Education | UNESCO-CEP official site Lưu trữ 2015-05-23 tại Wayback Machine |
Những ngày hành động quốc tế do UNESCO đề xuất và được thừa nhận[68]
Ngày | Tên | Tên gốc |
---|---|---|
27 tháng 1 | Ngày Quốc tế Kỷ niệm Tưởng nhớ các Nạn nhân của Holocaust | International Day of Commemoration in Memory of the Victims of the Holocaust |
13 tháng 2 | Ngày Phát thanh Thế giới | World Radio Day |
21 tháng 2 | Ngày tiếng mẹ đẻ Quốc tế | International Mother Language Day |
08 tháng 3 | Ngày Quốc tế Phụ nữ | International Women's Day |
20 tháng 3 | Ngày Quốc tế Pháp ngữ | International Francophonie Day |
21 tháng 3 | Ngày Quốc tế của Nowruz | International Day of Nowruz |
21 tháng 3 | Ngày Thơ Thế giới | World Poetry Day |
21 tháng 3 | Ngày Quốc tế xóa bỏ Kỳ thị chủng tộc | International Day for the Elimination of Racial Discrimination |
22 tháng 3 | Ngày Thế giới về Nước | World Day for Water |
23 tháng 4 | Ngày Sách và Bản quyền Thế giới | World Book and Copyright Day |
30 tháng 4 | Ngày Jazz Quốc tế | International Jazz Day |
03 tháng 5 | Ngày Tự do Báo chí thế giới | World Press Freedom Day |
21 tháng 5 | Ngày Thế giới về Đa dạng Văn hóa để Đối thoại và Phát triển | World Day for Cultural Diversity for Dialogue and Development |
22 tháng 5 | Ngày quốc tế Đa dạng sinh học | International Day for Biological Diversity |
25 tháng 5 | Ngày châu Phi / Tuần châu Phi | Africa Day / Africa Week |
05 tháng 6 | Ngày Môi trường Thế giới | World Environment Day |
08 tháng 6 | Ngày Đại dương Thế giới | World Oceans Day |
09 tháng 8 | Ngày Quốc tế Dân tộc Bản địa Thế giới | International Day of the World's Indigenous People |
12 tháng 8 | Ngày Thanh niên Quốc tế | International Youth Day |
23 tháng 8 | Ngày Quốc tế Tưởng niệm Buôn bán Nô lệ và Xoá bỏ nó | International Day for the Remembrance of the Slave Trade and its Abolition |
08 tháng 9 | Ngày Quốc tế biết Chữ | International Literacy Day |
15 tháng 9 | Ngày Quốc tế vì Dân chủ | International Day of Democracy |
21 tháng 9 | Ngày Quốc tế Hòa bình | International Day of Peace |
05 tháng 10 | Ngày Nhà giáo thế giới | World Teachers' Day |
Thứ Tư thứ 2 | Ngày Quốc tế Giảm nhẹ Thiên tai | International Day for Disaster Reduction |
17 tháng 10 | Ngày Quốc tế Xóa nghèo | International Day for the Eradication of Poverty |
20 tháng 10 | Ngày Thống kê thế giới | World Statistics Day |
27 tháng 10 | Ngày Thế giới về Di sản Nghe nhìn | World Day for Audiovisual Heritage |
10 tháng 11 | Ngày Khoa học Thế giới vì Hòa bình và Phát triển | World Science Day for Peace and Development |
Thứ Năm thứ 3 | Ngày Triết học Thế giới | World Philosophy Day |
16 tháng 11 | Ngày Khoan dung Quốc tế | International Day for Tolerance |
19 tháng 11 | Ngày Quốc tế Nam giới | International Men's Day |
25 tháng 11 | Ngày Quốc tế Loại bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ | International Day for the Elimination of Violence against Women |
29 tháng 11 | Ngày Quốc tế Đoàn kết với Nhân dân Palestine | International Day of Solidarity with the Palestinian People |
01 tháng 12 | Ngày thế giới phòng chống bệnh AIDS | World AIDS Day |
10 tháng 12 | Ngày Nhân quyền | Human Rights Day |
18 tháng 12 | Ngày Di dân Quốc tế | International Migrants Day |
Tt | Chân dung | Chủ tịch | Từ nước | Nhiệm kỳ |
---|---|---|---|---|
11. | Audrey Azoulay | Pháp | 2017– Hiện nay | |
10. | Irina Bokova | Bulgaria | 2009– 2017 | |
9. | Koïchiro Matsuura | Nhật Bản | 1999–2009 | |
8. | Federico Mayor Zaragoza | Tây Ban Nha | 1987–1999 | |
7. | Amadou-Mahtar M'Bow | Sénégal | 1974–1987 | |
6. | René Maheu | Pháp | Quyền 1961, 1961–1974 | |
5. | Vittorino Veronese | Ý | 1958–1961 | |
4. | Luther Evans | Hoa Kỳ | 1953–1958 | |
3. | John Wilkinson Taylor | Hoa Kỳ | Quyền 1952–1953 | |
2. | Jaime Torres Bodet | México | 1948–1952 | |
1. | Julian Huxley | Anh Quốc | 1946–1948 |
Kỳ họp | Tại | Năm | Chủ tọa | Từ nước |
---|---|---|---|---|
38. | Paris | 2015 | Stanley Mutumba Simataa[70] | Namibia |
37. | Paris | 2013 | Hao Ping | Trung Quốc |
36. | Paris | 2011 | Katalin Bogyay | Hungary |
35. | Paris | 2009 | Davidson Hepburn | Bahamas |
34. | Paris | 2007 | George N. Anastassopoulos | Hy Lạp |
33. | Paris | 2005 | Musa bin Jaafar bin Hassan | Oman |
32. | Paris | 2003 | Michael Omolewa | Nigeria |
31. | Paris | 2001 | Ahmad Jalali | Iran |
30. | Paris | 1999 | Jaroslava Moserova | Cộng hòa Séc |
29. | Paris | 1997 | Eduardo Portella | Brasil |
28. | Paris | 1995 | Torben Krogh | Đan Mạch |
27. | Paris | 1993 | Ahmed Saleh Sayyad | Yemen |
26. | Paris | 1991 | Bethwell Allan Ogot | Kenya |
25. | Paris | 1989 | Anwar Ibrahim | Malaysia |
24. | Paris | 1987 | Guillermo Putzeys Alvarez | Guatemala |
23. | Sofia | 1985 | Nikolaï Todorov | Bulgaria |
22. | Paris | 1983 | Saïd Tell | Jordan |
4. bất thường | Paris | 1982 | ||
21. | Belgrade | 1980 | Ivo Margan | Zambia |
20. | Paris | 1978 | Napoléon LeBlanc | Canada |
19. | Nairobi | 1976 | Taaita Toweett | Kenya |
18. | Paris | 1974 | Magda Jóború | Hungary |
3. bất thường | Paris | 1973 | ||
17. | Paris | 1972 | Toru Haguiwara | Nhật Bản |
16. | Paris | 1970 | Atilio Dell'Oro Maini | Argentina |
15. | Paris | 1968 | Willian Eteki-Mboumoua | Cameroon |
14. | Paris | 1966 | Bedrettin Tuncel | Thổ Nhĩ Kỳ |
13. | Paris | 1964 | Norair Sissakian | Tây Ban Nha |
12. | Paris | 1962 | Paulo de Berrêdo Carneiro | Brasil |
11. | Paris | 1960 | Akale-Work Abte-Wold | Ethiopia |
10. | Paris | 1958 | Jean Berthoin | Pháp |
9. | New Delhi | 1956 | Maulana Abul Kalam Azad | Ấn Độ |
8. | Montevideo | 1954 | Justino Zavala Muñiz | Uruguay |
2. bất thường | Paris | 1953 | ||
7. | Paris | 1952 | Sarvepalli Radhakrishnan | Ấn Độ |
6. | Paris | 1951 | Howland Sargeant | Hoa Kỳ |
5. | Florence | 1950 | Count Stefano Jacini | Ý |
4. | Paris | 1949 | Ronald Walker | Úc |
1. bất thường | Paris | 1948 | ||
3. | Beirut | 1948 | Hamid Bey Frangie | Liban |
2. | México City | 1947 | Manuel Gual Vidal | México |
1. | Paris | 1946 | Léon Blum | Pháp |
Hội đồng Chấp hành được bầu tại kỳ họp của Đại hội đồng UNESCO. Mỗi ủy viên được bầu đảm trách nhiệm kỳ 4 năm, tính từ 01 tháng 1 năm sau trúng cử. Kỳ họp tháng 11/2015 chưa có kết quả cuối cùng.
Nhiệm kỳ | Nhóm I (9) | Nhóm II (7) | Nhóm III (10) | Nhóm IV (12) | Nhóm V(a) (14) | Nhóm V(b) (7) |
---|---|---|---|---|---|---|
2019-2023[71] | Pháp |
Hungary |
Argentina |
Afghanistan |
Bénin | Ả Rập Xê Út |
2016-19[72] |
Cameroon |
|||||
2014-17[73] |
Argentina |
|||||
2012-15 |
Afghanistan |
UNESCO có văn phòng tại nhiều nơi trên toàn cầu; trụ sở chính của nó đặt tại Place de Fontenoy, Paris, Pháp, hiện tại đã đổi tên thành World Heritage Centre.[74]
UNESCO's field offices are categorized into four primary office types based upon their function and geographic coverage: cluster offices, national offices, regional bureaux and liaison offices.
Danh sách sau đây bao gồm tất cả các văn phòng UNESCO được phân chia theo vùng và được đánh dấu bằng tên các nước văn phòng đó phục vụ.[75]
Bài viết này có thể có nội dung gây nhầm lẫn hoặc không rõ ràng. (January 2012) |
Các Đại sứ thiện chí của UNESCO là người sử dụng tài năng hay sự nổi tiếng của mình để truyền bá tư tưởng của UNESCO, đặc biệt là thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Chất chuyên ngành khác nhau của người ủng hộ bao gồm những ngưới hoạt động vì hòa bình, hoạt động thể thao, hay làm Đặc phái viên cho UNESCO.
UNESCO có 22 giải thưởng[77] trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và hòa bình:
UNESCO đã từng là trung tâm của tranh cãi trong quá khứ, đặc biệt là trong mối quan hệ với Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Singapore và Liên Xô cũ.
Trong những năm 1970 và 1980, UNESCO hỗ trợ cho một "Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới" (New World Information and Communication Order), và báo cáo MacBride (MacBride report) của nó kêu gọi dân chủ hóa phương tiện truyền thông và tiếp cận bình đẳng hơn với các thông tin, đã bị lên án ở các nước vốn có nỗ lực kiềm chế tự do báo chí.
UNESCO đã được một số nước cảm nhận như là sân đấu cho các nước cộng sản và các nhà độc tài của thế giới Thứ ba để tấn công phương Tây[78]. Nó thể hiện rõ rệt trong tố cáo của Liên Xô vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Năm 1984, Hoa Kỳ đã cắt giảm của mình đóng góp và rồi rút lui khỏi UNESCO để phản đối, tiếp theo năm 1985 là Vương quốc Anh. Singapore cũng rút theo, với lý do phí thành viên tăng.[79]
Sau khi thay đổi chính phủ trong năm 1997, Anh gia nhập trở lại. Hoa Kỳ gia nhập lại vào năm 2003, tiếp theo là Singapore ngày 08/10/2007.
Vào ngày 16 và 17 tháng 2 năm 2012, UNESCO đã tổ chức một hội nghị mang tên Truyền thông thế giới sau WikiLeaks và Tin tức thế giới (The Media World after WikiLeaks and News of the World). Mặc dù tất cả sáu tấm áp phích đều tập trung về WikiLeaks, nhưng lại không có ai từ WikiLeaks được mời là diễn giả. Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson, UNESCO đã mời ông tham dự, nhưng không đưa ra bất kỳ một vị trí trên bảng.[80] Các đề nghị cũng chỉ được đưa ra một tuần trước khi hội nghị được tổ chức tại Paris, Pháp. Những diễn giả khác như David Leigh và Heather Brooke thì lên tiếng công khai chống lại WikiLeaks và người sáng lập Julian Assange trong quá khứ.
WikiLeaks phát hành một thông cáo báo chí vào ngày 15/02/2012 tố cáo UNESCO trong đó nói: "UNESCO đã tự biến mình thành một trò đùa về nhân quyền quốc tế. Sử dụng "tự do ngôn luận" để kiểm duyệt WikiLeaks từ một hội nghị về WikiLeaks là một điều Orwellian ngớ ngẩn vượt mọi ngôn từ. Đây là một sự lạm dụng quá quắt Hiến chương UNESCO. Đây là thời gian để chiếm UNESCO."[81] Kèm theo tuyên bố là email trao đổi của người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson và ban tổ chức hội nghị UNESCO.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.