Lực lượng Vũ trang Liên Xô
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết(tiếng Nga: Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (1917—1922) và Liên bang Xô viết (1922—1991), khởi đầu từ Nội chiến Nga đến khi giải thể vào tháng 12 năm 1991.
Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết | |
---|---|
Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик Vooruzhonnyye Sily Soyuza Sovetskikh Sotsialisticheskikh Respublik | |
Thành lập | 15/1/1918 |
Giải tán | 26/12/1991 |
Các nhánh phục vụ | Lục quân Không quân Hải quân Phòng không Tên lửa chiến lược |
Sở chỉ huy | Moskva, Nga Xô viết, Liên Xô |
Lãnh đạo | |
Tổng Bí thư | Joseph Stalin (1922–1952) Mikhail Gorbachev (1985–1991) |
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng | Nikolai Podvoisky (1917–1918) Yevgeny Shaposhnikov (1991) |
Tổng Tham mưu trưởng | Pavel Pavlovich Lebedev (1921–1924) Vladimir Lobov (1991) |
Nhân lực | |
Tuổi nhập ngũ | 18–35 |
Cưỡng bách tòng quân | 2 năm (lục quân & không quân) 3 năm (hải quân) |
Sẵn sàng cho nghĩa vụ quân sự | 92,345,764 (1991), age 18–35 |
Số quân tại ngũ | 4,490,000 (1990) |
Số quân dự bị | 35,745,000 |
Phí tổn | |
Ngân sách | $290 tỷ (1990)[1][2][lower-alpha 1] |
Phần trăm GDP | 12.9% (1990) |
Bài viết liên quan | |
Lịch sử | Lịch sử Quân đội Liên bang Xô viết |
Quân hàm | Cấp bậc quân sự Lực lượng vũ trang Liên Xô |
Theo luật quân sự liên bang ra vào tháng 9 năm 1925 thì Lực lượng vũ trang Liên Xô gồm 5 bộ phận cấu thành: Lục quân, Không quân, Hải quân, Tổng cục Chính trị (OGPU) và Cận vệ.[5] OGPU sau đó tách ra độc lập và hợp nhất với NKVD năm 1934. Sau cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Bộ đội Tên lửa Chiến lược (1960), Lực lượng Phòng không (1948) và các đơn vị thuộc Lực lượng Dân quân Quốc gia toàn Liên bang (1970) được sáp nhập vào Lực lượng vũ trang Liên Xô.
Lực lượng vũ trang Liên Xô cuối những năm 1989 được thiết lập gồm:
- Cơ quan quân sự Trung ương
- Quân đội Xô Viết (trước tháng 2/1946 được gọi là Hồng quân Công nông Xô Viết)
- Lục quân Xô Viết
- Phòng không Xô Viết
- Không quân Xô Viết
- Tên lửa chiến lược Xô Viết
- Dân phòng Xô Viết
- Hải quân Xô Viết
- Hậu cần Xô Viết
- Lực lượng Biên phòng Ủy ban An ninh Nhà nước Liên Xô (1939-1989)
- Lực lượng Nội vụ Bộ Nội vụ Liên Xô (1939-1989)
Vào giữa những năm 1980, Lực lượng Vũ trang Liên Xô là một trong những lực lượng lớn nhất thế giới về số lượng vào thời điểm đó và sở hữu lượng lớn vũ khí hạt nhân và hóa học.
Mặc dù sự sụp đổ của Liên Xô vào cuối năm 1991, lực lượng vũ trang Liên Xô de facto kéo dài đến cuối năm 1993 - theo hình thức Lực lượng vũ trang kết hợp Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (SNG), mặc dù de jure đã không còn tồn tại, ngày 14/2/1992, Lãnh đạo Hội đồng Nguyên thủ quốc gia Cộng đồng các Quốc gia Độc lập đã chính thức bổ nhiệm cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô Yevgeny Shaposhnikov làm Tổng tư lệnh các lực lượng quân sự chung của SNG.
Ngoài ra Lực lượng vũ trang Liên Xô cũng được hình thành các đơn vị đồn trú tại các nơi đóng quân ở Áo, Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Đông Đức, Đức (WGF), Ba Lan (GBS), Tiệp Khắc (TSGV), Hungary (YUGV), Bulgaria, Rumani, Cuba, Việt Nam, Campuchia, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Afghanistan và ở một số quốc gia châu Phi khác.