Quốc hội Việt Nam khóa II
From Wikipedia, the free encyclopedia
Quốc hội Việt Nam khóa II (nhiệm kỳ 1960–1964) là Quốc hội nhiệm kỳ thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và là Quốc hội đầu tiên hoạt động trong thời kỳ đất nước bị chia cắt. Quốc hội thứ hai được bầu ngày 8 tháng 5 năm 1960 và diễn ra trong 8 kỳ họp, có vai trò quan trọng thực thi các quyết sách trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam và kiện toàn các cơ quan trọng yếu trong bộ máy nhà nước.
Quốc hội Việt Nam | |
---|---|
Quốc hội Việt Nam khóa II | |
Quốc huy | |
Dạng | |
Mô hình | |
Các viện | Quốc hội |
Thời gian nhiệm kỳ | 06/07/1960 – 24/06/1964 3 năm, 354 ngày |
Lịch sử | |
Thành lập | 6 tháng 1 năm 1946 (1946-01-06) |
Tiền nhiệm | Quốc hội khóa I |
Kế nhiệm | Quốc hội khóa III |
Kỳ họp mới bắt đầu | 06-15 tháng 7 năm 1960: Kỳ họp thứ nhất |
Lãnh đạo | |
Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký | |
Xuân Thủy (Lao động) Nguyễn Xiển (Xã hội) Trần Đăng Khoa (Dân chủ) Chu Văn Tấn (Lao động) Nguyễn Văn Hưởng (Lao động) [1] Từ 06 tháng 7 năm 1960 | |
Cơ cấu | |
Số ghế | 453 362 ĐB qua bầu cử 91 ĐB khóa I Miền Nam lưu nhiệm |
Chính đảng | Đại biểu qua bầu cử (362), trong đó:
Đại biểu Miền Nam khóa I lưu nhiệm (91) [3] |
Nhiệm kỳ | 1960-1964 |
Bầu cử | |
Bầu cử vừa qua | 08/05/1960 Bầu cử Quốc hội khóa II |
Bầu cử tiếp theo | 26/04/1964 Bầu cử Quốc hội khóa III |
Trụ sở | |
Nhà hát Lớn Hà Nội | |
Trang web | |
quochoi |
Là khóa Quốc hội đầu tiên hoạt động theo những nguyên tắc của Hiến pháp 1959, Quốc hội khóa II đã thông qua 6 luật và 9 pháp lệnh, trong đó có những đạo luật cơ bản về tổ chức nhà nước như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.[1] Ngoài ra, cũng trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Đây cũng là lần đầu tiên cơ quan lãnh đạo thường trực của Quốc hội được được gọi là Ủy ban Thường vụ Quốc hội (thay thế cho "Ban thường trực Quốc hội" cũ), và thủ trưởng cơ quan này gọi là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng thời là Chủ tịch Quốc hội. Trường Chinh là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ khóa II, được bầu tại phiên bế mạc của Kỳ họp đầu tiên diễn ra ngày 15 tháng 7 năm 1960.