nhóm nhạc nữ Hàn Quốc From Wikipedia, the free encyclopedia
Le Sserafim (/lʊ
Le Sserafim | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Le Sserafim vào tháng 6 năm 2022. Từ trái sang phải: Kazuha, Kim Chae-won, Sakura, Huh Yun-jin và Hong Eun-chae | |||||||
Thông tin nghệ sĩ | |||||||
Nguyên quán | Seoul, Hàn Quốc | ||||||
Thể loại | |||||||
Năm hoạt động | 2022 | –nay||||||
Công ty quản lý | Source Music | ||||||
Hãng đĩa |
| ||||||
Thành viên |
| ||||||
Cựu thành viên |
| ||||||
Website | Trang web chính thức | ||||||
Tên tiếng Hàn | |||||||
Hangul | 르세라핌 | ||||||
| |||||||
Tên tiếng Nhật | |||||||
Katakana | ル セラフィム | ||||||
|
Tên của nhóm, Le Sserafim, là phép đảo chữ của cụm từ "I'm Fearless" (tạm dịch: "Tôi không sợ hãi") với ý nghĩa "thể hiện sự tự tin của các cô gái khi bước ra thế giới".[2] Thứ tự đảo các chữ cái được trực quan hóa bằng những đường kẻ và cách điệu thành logo của nhóm.[3]
Ngày 8 tháng 8 năm 2022, Le Sserafim tung ra video logo motion và công bố tên cộng đồng người hâm mộ của mình là Fearnot (tạm dịch: "Đừng/Không sợ hãi"), được viết bằng hangul là 피어나 (RR: Pieona), đồng âm với từ "nở rộ" trong tiếng Hàn, mang ý nghĩa Le Sserafim, tiến về phía trước một cách không sợ hãi, và người hâm mộ, những người không lo sợ yêu thương và ủng hộ nhóm, sẽ cùng nhau nở rộ trong từng khoảnh khắc.[4] Ngày 3 tháng 1 năm 2023, Source Music công bố màu sắc chính thức của Fearnot là màu Fearless Blue ( Pantone 7453C), màu sắc của những ngôi sao có nhiệt độ cao nhất, tượng trưng cho tinh thần khắc kỷ nhưng cũng đầy nhiệt huyết.[5]
Năm 2011, Sakura gia nhập đội thực tập sinh thế hệ thứ nhất của nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản HKT48.[6] Cô được nâng lên làm thành viên chính thức của HKT48 Team H vào năm 2012;[7][8] luân chuyển sang HKT48 Team KIV và trở thành thành viên song song của AKB48 Team A vào năm 2014.[9][10] Sau 10 năm hoạt động cùng với nhóm, Sakura chính thức tốt nghiệp vào ngày 27 tháng 6 năm 2021.[11][12]
Năm 2018, Sakura, Kim Chae-won và Huh Yun-jin tham gia chương trình truyền hình thực tế sống còn Produce 48.[13][14][15] Sakura đại diện cho HKT48, Kim Chae-won đại diện cho Woollim Entertainment, và Huh Yun-jin đại diện cho Pledis Entertainment[upper-alpha 1].[16][17] Với thứ hạng chung cuộc lần lượt là 2 và 10, Sakura và Kim Chae-won lọt vào đội hình ra mắt của nhóm nhạc nữ dự án IZ*ONE,[18] và hoạt động cùng nhóm cho đến khi tan rã vào ngày 29 tháng 4 năm 2021.[19][20] Huh Yun-jin xếp hạng 26 và bị loại ở tập 11.[21]
Trước khi gia nhập Le Sserafim, Kazuha là một vũ công ba lê chuyên nghiệp với vô số giải thưởng, và sau khi vượt qua buổi tuyển chọn, cô được nhà sáng lập của Big Hit Music Bang Si-hyuk chiêu mộ khi đang theo học tại Học viện Ba lê Quốc gia Amsterdam, Hà Lan.[22] Kazuha cũng từng theo học tại Học viện Nghệ thuật vũ đạo Quốc gia Moskva ở Moskva, Nga và Trường Ba lê Hoàng gia ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.[23]
Hong Eun-chae từng là học viên của Def Dance Skool trong vòng hai năm. Cô cũng từng thử giọng cho JYP Entertainment và Pledis Entertainment trước khi thực tập tại Source Music vào năm 2021.[24]
Ngày 14 tháng 3 năm 2022, Source Music công bố việc thành lập một nhóm nhạc nữ mới, với Sakura và Kim Chae-won là những thành viên đầu tiên.[25][26] Ngày 21 tháng 3, Hybe cho biết nhóm sẽ ra mắt công chúng vào tháng 5.[27] Các thành viên của nhóm lần lượt được công bố thông qua chuỗi teaser "The First Moment of Le Sserafim" từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 4 (theo thứ tự: Sakura,[28] Kim Ga-ram,[29] Hong Eun-chae,[30] Kim Chae-won,[31] Kazuha[32] và Huh Yun-jin[33]). Ngày 13 tháng 4, Source Music công bố rằng Le Sserafim sẽ phát hành mini-album đầu tay mang tên gọi Fearless vào ngày 2 tháng 5 năm 2022.[34] Số đơn đặt trước của album đạt hơn 270.000 bản sau 7 ngày và tăng lên hơn 380.000 bản sau 16 ngày.[35] Trong vòng một ngày từ khi được phát hành, Fearless đạt doanh số hơn 175.000 bản.[36] Ngày 10 tháng 5 năm 2022, 8 ngày sau khi ra mắt công chúng, Le Sserafim giành được chiến thắng trên chương trình âm nhạc hàng tuần đầu tiên tại SBS M The Show.[37]
Từ trước khi nhóm chính thức ra mắt khán giả, Kim Ga-ram đã trở thành chủ đề gây tranh cãi. Cô bị cáo buộc thực hiện các hành vi bạo lực học đường với các học sinh khác khi đang học trung học cơ sở, hút thuốc lá và uống rượu bia khi chưa đủ tuổi. Hybe Corporation chối bỏ các cáo buộc, cho rằng Kim Ga-ram là nạn nhân chứ không phải người thực hiện hành vi bạo lực. Công ty cũng nói rằng họ sẽ thực hiện các hành động pháp lý với những người lan truyền tin đồn sai lệch, và Kim Ga-ram sẽ không bị loại khỏi đội hình chính thức.[38] Ngày 20 tháng 5 năm 2022, Hybe và Source Music cùng nhau đưa ra ý kiến về cáo buộc của Kim Ga-ram, thông báo cô sẽ tạm ngừng hoạt động cùng nhóm để đợi quá trình điều tra và Le Sserafim sẽ tiếp tục quảng bá với đội hình 5 thành viên.[39] Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Hybe Corporation và Source Music thông báo chấm dứt hợp đồng độc quyền với Kim Ga-ram, cô chính thức rời nhóm, Le Sserafim sẽ tiếp tục hoạt động với 5 thành viên.[40][41]
Le Sserafim phát hành mini-album thứ hai, Antifragile, vào ngày 17 tháng 10. Album là sản phẩm âm nhạc chính đầu tiên của nhóm với đội hình năm người sau khi Kim Ga-ram rời nhóm.[42] Antifragile đạt thứ hạng cao nhất là 14 trên bảng xếp hạng Billboard 200, giúp Le Sserafim trở thành nhóm nhạc nữ K-pop lọt vào bảng xếp hạng này nhanh nhất.[43] Ngày 24 tháng 11, Hybe phát hành bộ webtoon mang tên Crimson Heart, lấy cảm hứng từ thông điệp của nhóm là "tiến lên không sợ hãi" thông qua nền tảng Webtoon.[44]
Le Sserafim phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "Fearless" vào ngày 25 tháng 1 năm 2023.[45]
Ngày 01 tháng 5 năm 2023, Le Sserafim có màn trở lại tại Hàn Quốc với full album đầu tay và bài hát chủ đề cùng tên "Unforgiven". Album bao gồm một số bài hát cũ được thu âm lại với 5 thành viên (sau khi thành viên Kim Garam rời nhóm) và 07 bài hát mới. Unforgiven đã giúp Le Sserafim lần đầu tiên đạt #1 trên bảng xếp hạng âm nhạc lớn nhất Hàn Quốc Melon và thành công dành được 6 cup trên các chương trình âm nhạc hàng tuần. Bên cạnh bài hát chủ đề, nhóm còn tung MV cho bài hát B-side "Eve, Psyche and Bluebeard's wife", ca khúc này ngay sau đó cũng đã đạt vị trí cao trên các BXH âm nhạc và dành được 1 cup trên chương trình Inkigayo. Ngay sau đó, Le Sserafim đã tung ra phiên bản Tiếng Nhật của ca khúc "Unforgiven" và phiên bản Tiếng Anh của ca khúc "Eve, Psyche and Bluebeard's wife".
Ngày 27 tháng 10 năm 2023, Le Sserafim đã có màn collab với tựa game đình đám Overwatch 2 để tung ra MV và đĩa đơn Tiếng Anh Perfect Night. Bài hát này là bài hát có thứ hạng cao nhất của Le Sserafim trên các bảng xếp hạng âm nhạc của Hàn Quốc, đồng thời mở ra cơ hội lớn cho nhóm trong việc chinh phục thị trường quốc tế.
Ngày 19 tháng 2 năm 2024, Le Sserafim đã có màn comeback tại Hàn Quốc với mini album thứ 3 và bài hát chủ đề cùng tên "Easy". "Easy" đã giúp nhóm dành được nhiều cup nhất trên các chương trình âm nhạc hàng tuần kể từ khi ra mắt, với 9 cup. "Easy" cũng là bài hát đầu tiên giúp Le Sserafim đặt chân vào Bảng xếp hạng âm nhạc lớn nhất thế giới Billboard Hot 100 ở vị trí #99. Bên cạnh bài hát chủ đề, nhóm còn tung MV cho bài hát B-side Smart, ca khúc này ngay sau đó cũng đã đạt vị trí cao trên các BXH âm nhạc và điệu nhảy của bài hát trở nên viral trên các trang mạng xã hội.
Le Sserafim lần đầu tiên được mời biểu diễn tại Lễ hội âm nhạc lớn nhất thế giới Coachella vào 02 đêm 13 và 20 tháng 4 năm 2024. Nhóm đã trình diễn liên tục hơn 40 phút với 11 bài hát, bao gồm: Good Bones (Intro), Antifragile, Fearless, The Great Mermaid, Eve, Psyche and the Bluebeard's wife, 1-800-hot-n-fun (bài hát mới), Unforgiven, Perfect Night, Easy, Smart, Fire In The Belly.
Nghệ danh | Tên khai sinh | Ngày sinh | Vị trí | Nơi sinh | Quốc tịch | ||||||
Latinh | Hangul | Kana | Latinh | Hangul | Kana | Hanji | Hán-Việt | ||||
Thành viên hiện tại | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Sakura | 사쿠라 | さくら | Miyawaki Sakura | 미야와키 사쿠라 | みやわき さくら | 宮脇咲良 | Cung Hiếp Tiếu Lương | 19 tháng 3, 1998 | Sub Vocalist, Lead Rapper, Visual | Kagoshima, Nhật Bản | Nhật Bản |
Kim Chaewon | 김채원 | キム・チェウォン | Kim Chae-won | 김채원 | キム・チェウォン | 金采源 | Kim Thái Nguyên | 1 tháng 8, 2000 | Lead Vocalist, Center, Leader | Gangnam-gu, Seoul, Hàn Quốc | Hàn Quốc |
Huh Yunjin | 허윤진 | ホ・ユンジン | Huh Yun-jin | 허윤진 | ホ・ユンジン | 许允真 | Hứa Duẫn Chân | 8 tháng 10, 2001 | Main Vocalist,
Main Rapper, Lead Dancer |
Hàn Quốc | |
Jennifer Huh | 제니퍼 허 | ジェニファー・ホ | Hoa Kỳ[46] | ||||||||
Kazuha | 카즈하 | かずは | Nakamura Kazuha | 나카무라 카즈하 | なかむら かずは | 中村一葉 | Trung Thôn Nhất Diệp | 9 tháng 8, 2003 | Main Dancer, Lead Vocalist | Ōsaka, Nhật Bản | Nhật Bản |
Hong Eunchae | 홍은채 | ホン・ウンチェ | Hong Eun-chae | 홍은채 | ホン・ウンチェ | 洪恩採 | Hồng Ân Thái | 10 tháng 11, 2006 | Lead Dancer, Sub Vocalist, Maknae | Miryang, Gyeongsang Nam, Hàn Quốc | Hàn Quốc |
Cựu thành viên | |||||||||||
Kim Garam | 김가람 | キム・ガラム | Kim Ga-ram | 김가람 | キム・ガラム | 金佳覽 | Kim Giai Lam | 16 tháng 11, 2005 | Lead Vocalist, Sub Rapper | Sangju, Gyeongsang Bắc, Hàn Quốc | Hàn Quốc |
Tháng 4 năm 2022, sau khi Kim Ga-ram được công bố là thành viên của Le Sserafim, cô bị cáo buộc là đã bắt nạt một số bạn cùng lớp và có những hành vi không phù hợp khi còn đi học. Những hình ảnh được cho là bằng chứng cho việc này, bao gồm ảnh có Kim Ga-ram xuất hiện, được lan truyền trên mạng Internet. Hybe phủ nhận các cáo buộc và cho biết cô là nạn nhân chứ không phải thủ phạm bạo lực học đường, đồng thời tuyên bố sẽ có hành động pháp lý với những người đã lan truyền tin đồn không đúng sự thật. Kim Ga-ram ra mắt công chúng với tư cách là thành viên của Le Sserafim vào ngày 2 tháng 5 năm 2022 đúng như kế hoạch.[47]
Ngày 16 tháng 5 năm 2022, một trong những người được cho là nạn nhân của Ga-ram đăng tải ảnh chụp một văn bản chính thức của nhà trường cho thấy cô từng bị hội đồng chống bắt nạn của trường kỷ luật vì hành vi bắt nạt. Hybe tiếp tục khẳng định rằng cô không phải là thủ phạm.[48]
Ngày 19 tháng 5 năm 2022, Yoo Eun-seo (bí danh) tuyên bố mình đã chịu chấn thương và tổn thương tâm lý và phải được điều trị tâm lý vì bị Kim Ga-ram bắt nạt. Công ty luật Daeryun, người đại diện của Yoo, cho biết Yoo muốn nhận được lời xin lỗi từ Kim Ga-ram và yêu cầu Hybe xem lại lập trường của công ty về các cáo buộc đối với cô. Hybe cho biết công ty đã không đưa ra lời giải thích nào vì vụ việc có liên quan đến trẻ vị thành niên và công ty cần điều tra những lời tuyên bố của cả hai bên, đồng thời chỉ trích cách công ty luật Daeryun xử lý vụ việc và yêu cầu giới truyền thông không đưa tin một chiều về vụ việc.[49] Một ngày sau, Le Sserafim huỷ bỏ màn biểu diễn của nhóm trên Music Bank và tạm hoãn một sự kiện ký tặng người hâm mộ trực tuyến.[50] Hybe cũng công bố rằng Kim Ga-ram sẽ tạm ngừng hoạt động cùng nhóm và Le Sserafim sẽ tiếp tục quảng bá với đội hình 5 thành viên.[39]
Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Hybe ra thông báo chấm dứt hợp đồng độc quyền và Kim Ga-ram chính thức rời nhóm. Le Sserafim sẽ hoạt động với 5 thành viên.[51]
Tên | Thông tin chi tiết | Thứ hạng cao nhất | Doanh số |
---|---|---|---|
KOR | |||
Unforgiven |
|
Chờ phát hành |
Tên | Thông tin chi tiết | Thứ hạng cao nhất | Doanh số | Chứng nhận | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
KOR [52] |
FIN [53] |
JPN [54] |
JPN Hot [55] |
US [56] |
US World [57] | ||||
Fearless |
|
2 | 27 | 3 | 1 | — | — | ||
Antifragile |
|
2 | — | 1 | 1 | 14 | 1 |
| |
"—" cho biết bài hát không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại khu vực này. |
Tên | Năm | Thứ hạng cao nhất | Doanh số | Chứng nhận | Album | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
KOR [66] |
KOR Songs [67] |
CAN [68] |
JPN [69] |
JPN Hot [70] |
NZ Hot [71] |
SGP [72] |
US World [73] |
VIE [74] |
WW [75] | ||||||
Tiếng Hàn | |||||||||||||||
"Fearless" | 2022 | 9 | 4 | — | — | 9 | 27 | 7 | 12 | 36 | 69 |
|
Fearless | ||
"Antifragile" | 9 | 4 | — | — | 9 | 27 | 7 | 12 | 36 | 69 |
|
|
Antifragile | ||
Tiếng Nhật | |||||||||||||||
"Fearless (Japanese ver.)" | 2023 | — | — | — | 1 | 1 | — | — | — | — | — |
|
Đĩa đơn không nằm trong album | ||
"—" cho biết bài hát không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại khu vực này. |
Tên | Năm | Thứ hạng cao nhất | Album |
---|---|---|---|
KOR Down. [82] | |||
"Choices"[upper-alpha 2] | 2023 | 191 | "Fearless" (Japanese version) |
Tên | Năm | Thứ hạng cao nhất |
Album | ||
---|---|---|---|---|---|
KOR [84] |
KOR Songs [67] |
SGP | |||
"The World Is My Oyster" | 2022 | —[upper-alpha 3] | — | — | Fearless |
"Blue Flame" | 193 | — | —[upper-alpha 4] | ||
"The Great Mermaid" | —[upper-alpha 5] | — | — | ||
"Sour Grapes" | —[upper-alpha 6] | — | —[upper-alpha 7] | ||
"The Hydra" | —[upper-alpha 8] | — | — | Antifragile | |
"Impurities" | 140 | 24 | — | ||
"No Celestial" | 149 | — | — | ||
"Good Parts (When the Quality Is Bad but I Am)" | 154 | —[upper-alpha 9] | — | ||
"—" cho biết bài hát không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại khu vực này. |
Ngày | Địa Điểm | Thành Phố | Quốc Gia | Người Tham Dự | Doanh Thu |
---|---|---|---|---|---|
12 tháng 8 | Jamsil Indoor Stadium | Seoul | Hàn Quốc | 10,503 / 10,503 | $1,169,029 |
13 tháng 8 | |||||
23 tháng 8 | Nippon Gaishi Hall | Nagoya | Nhật Bản | 17,010 / 17,010 | $1,634,569 |
24 tháng 8 | |||||
30 tháng 8 | Sân vận động Quốc gia Yoyogi | Tokyo | 24,348 / 24,348 | $2,265,468 | |
31 tháng 8 | |||||
6 tháng 9 | Hội trường Osaka-jō | Osaka | 20,056 / 20,056 | $1,881,733 | |
7 tháng 9 | |||||
30 tháng 9 | AsiaWorld-Expo | Hồng Kông | Hồng Kông | 11,200 / 11,200 | $1,783,991 |
3 tháng 10 | Jiexpo Kemayoran | Jakarta | Indonesia | 2,625 / 3.767 | $394,748 |
7 tháng 10 | Băng Cốc | Thái Lan | |||
8 tháng 10 | |||||
Tổng | 85,742 / 86,884 | $9,129,538 |
Lễ trao giải | Năm | Hạng mục | Đề cử cho | Kết quả | Tham khảo |
---|---|---|---|---|---|
Asia Artist Awards | 2022 | Best Musician Award | Le Sserafim | Đoạt giải | [98] |
Rookie of the Year – Music | Đoạt giải | ||||
DCM Popularity Award – Female Singer | Đề cử | [99] | |||
Idolplus Popularity Award – Music | Đề cử | [100] | |||
Circle Chart Music Awards | 2023 | Song of the Year – May | "Fearless" | Chưa công bố | [101] |
Song of the Year – October | "Antifragile" | Chưa công bố | |||
Genie Music Awards | 2022 | Best Female Rookie Award | Le Sserafim | Đề cử | [102] |
Golden Disc Awards | 2023 | Digital Song Bonsang | "Fearless" | Đề cử | [103] |
Rookie Artist of the Year | Le Sserafim | Đoạt giải | [104] | ||
K-Global Heart Dream Awards | 2022 | K-Global Best Music Video Award | Đoạt giải | [105] | |
K-Global Super Rookie Award | Đoạt giải | ||||
MAMA Awards | 2022 | Favorite New Artist | Đoạt giải | [106] | |
Artist of the Year | Đề cử | [107] | |||
Best Dance Performance – Female Group | "Fearless" | Đề cử | |||
Best New Female Artist | Le Sserafim | Đề cử | |||
Song of the Year | "Fearless" | Đề cử | |||
Worldwide Fans' Choice Top 10 | Le Sserafim | Đề cử | |||
Melon Music Awards | 2022 | Best Performance – Female | Đoạt giải | [108] | |
Hot Trend Award | Đoạt giải | ||||
Artist of the Year | Đề cử | [109] | |||
Best New Artist | Đề cử | ||||
Netizen Popularity Award | Đề cử | ||||
Top 10 Artist Award | Đề cử | ||||
The Fact Music Awards | 2022 | Next Leader Award | Đoạt giải | [110] | |
Fan N Star Choice Award (Artist) | Đề cử | [111] | |||
Four Star Awards | Đề cử | [112] | |||
Idolplus Popularity Award | Đề cử | [113] |
Năm | Ngày | Bài hát | Điểm |
---|---|---|---|
2022 | 10 tháng 5 | "FEARLESS" | 8456 |
17 tháng 5 | 9670 | ||
2023 | 9 tháng 5 | "UNFORGIVEN" | 9340 |
Năm | Ngày | Bài hát | Điểm |
---|---|---|---|
2022 | 1 tháng 6 | "FEARLESS" | 5127 |
2023 | 10 tháng 5 | "UNFORGIVEN" | 7521 |
2024 | 28 tháng 2 | "EASY" | 4261 |
11 tháng 9 | "CRAZY" | 4777 |
Năm | Ngày | Bài hát | Điểm |
---|---|---|---|
2023 | 11 tháng 5 | "UNFORGIVEN" | 8575 |
2024 | 29 tháng 2 | "EASY" | 9428 |
7 tháng 3 | 8502 | ||
14 tháng 3 | 7900 | ||
12 tháng 9 | "CRAZY" | 7694 |
Năm | Ngày | Bài hát | Điểm |
---|---|---|---|
2022 | 13 tháng 5 | "FEARLESS" | 7881 |
4 tháng 11 | "ANTIFRAGILE" | 8786 | |
11 tháng 11 | 6137 | ||
2023 | 12 tháng 5 | "UNFORGIVEN" | 13498 |
2024 | 1 tháng 3 | "EASY" | 9874 |
15 tháng 3 | 4492 |
Năm | Ngày | Bài hát | Điểm |
---|---|---|---|
2022 | 3 tháng 12 | "ANTIFRAGILE" | 6384 |
10 tháng 12 | 6017 | ||
17 tháng 12 | 6396 | ||
2023 | 13 tháng 5 | "UNFORGIVEN" | 7172 |
9 tháng 12 | "Perfect Night" | 6034 | |
16 tháng 12 | 6863 | ||
2024 | 2 tháng 3 | "EASY" | 6859 |
Năm | Ngày | Bài hát | Điểm |
---|---|---|---|
2023 | 14 tháng 5 | "UNFORGIVEN" | 8466 |
16 tháng 7 | "Eve, Psyche & The Bluebeard's wife" | 6463 | |
2024 | 3 tháng 3 | "EASY" | 7400 |
10 tháng 3 | 7148 |
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.