Le Sserafim

nhóm nhạc nữ Hàn Quốc From Wikipedia, the free encyclopedia

Le Sserafim

Le Sserafim (/lə ˈsɛrəfɪm/ luu SERR-uh-fim;[4] tiếng Hàn: 르세라핌; Romaja: Reu Serapim; tiếng Nhật: ル セラフィム; cách điệu: LE SSERAFIM) là một nhóm nhạc nữ thần tượng Hàn Quốc được thành lập và quản lý bởi Source Music, một công ty con của Hybe; bao gồm 5 thành viên: Sakura, Kim Chae-won, Huh Yun-jin, Kazuha và Hong Eun-chae. Đội hình ban đầu của LE SSERAFIM bao gồm 6 thành viên, tuy nhiên vào ngày 20 tháng 7 năm 2022, công ty quản lý thông báo thành viên Kim Ga-ram đã bị chấm dứt hợp đồng độc quyền và rời nhóm do cáo buộc bạo lực học đường. LE SSERAFIM chính thức ra mắt vào ngày 2 tháng 5 năm 2022 với đĩa mở rộng (EP) đầu tay Fearless.

Thông tin Nhanh Thông tin nghệ sĩ, Nguyên quán ...
Le Sserafim
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánSeoul, Hàn Quốc
Thể loại
Năm hoạt động2022 (2022)–nay
Công ty quản Source Music
Hãng đĩa
Thành viên
Cựu thành viên
  • Kim Ga-ram
WebsiteTrang web chính thức bên Hàn
Trang web chính thức bên Nhật
Tên tiếng Hàn
Hangul
르세라핌
Tên tiếng Nhật
Katakanaル セラフィム
Đóng

Tên gọi

Thumb
Phép đảo chữ "I'm Fearless" thành "Le Sserafim"

Tên của nhóm, Le Sserafim, là phép đảo chữ của cụm từ "I'm Fearless" (tạm dịch: "Tôi không sợ hãi") với ý nghĩa "thể hiện sự tự tin của các cô gái khi bước ra thế giới".[5] Thứ tự đảo các chữ cái được trực quan hóa bằng những đường kẻ và cách điệu thành logo của nhóm.[6]

Thumb
Logo của Fearnot

Ngày 8 tháng 8 năm 2022, Le Sserafim tung ra video logo motion và công bố tên cộng đồng người hâm mộ của mình là Fearnot (tạm dịch: "Đừng/Không sợ hãi"), được viết bằng hangul피어나 (RR: Pieona), đồng âm với từ "nở rộ" trong tiếng Hàn, mang ý nghĩa Le Sserafim, tiến về phía trước một cách không sợ hãi, và người hâm mộ, những người không lo sợ yêu thương và ủng hộ nhóm, sẽ cùng nhau nở rộ trong từng khoảnh khắc.[7] Ngày 3 tháng 1 năm 2023, Source Music công bố màu sắc chính thức của Fearnot là màu Fearless Blue ( Pantone 7453C), màu sắc của những ngôi sao có nhiệt độ cao nhất, tượng trưng cho tinh thần khắc kỷ nhưng cũng đầy nhiệt huyết.[8]

Lịch sử

Trước khi ra mắt

Thumb
Thumb
Thumb
Từ trái sang: Sakura, Kim Chae-won, và Huh Yun-jin khi tham gia Produce 48 vào năm 2018

Năm 2011, Sakura gia nhập đội thực tập sinh thế hệ thứ nhất của nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản HKT48.[9] Cô được nâng lên làm thành viên chính thức của HKT48 Team H vào năm 2012;[10][11] luân chuyển sang HKT48 Team KIV và trở thành thành viên song song của AKB48 Team A vào năm 2014.[12][13] Sau 10 năm hoạt động cùng với nhóm, Sakura chính thức tốt nghiệp vào ngày 27 tháng 6 năm 2021.[14][15]

Năm 2018, Sakura, Kim Chae-wonHuh Yun-jin tham gia chương trình truyền hình thực tế sống còn Produce 48.[16][17][18] Sakura đại diện cho HKT48, Kim Chae-won đại diện cho Woollim Entertainment, và Huh Yun-jin đại diện cho Pledis Entertainment[A].[19][20] Với thứ hạng chung cuộc lần lượt là 2 và 10, SakuraKim Chae-won lọt vào đội hình ra mắt của nhóm nhạc nữ dự án IZ*ONE,[21] và hoạt động cùng nhóm cho đến khi tan rã vào ngày 29 tháng 4 năm 2021.[22][23] Huh Yun-jin xếp hạng 26 và bị loại ở tập 11.[24]

Trước khi gia nhập Le Sserafim, Kazuha là một vũ công ba lê chuyên nghiệp với vô số giải thưởng, và sau khi vượt qua buổi tuyển chọn, cô được nhà sáng lập của Big Hit Music Bang Si-hyuk chiêu mộ khi đang theo học tại Học viện Ba lê Quốc gia Amsterdam, Hà Lan.[25] Kazuha cũng từng theo học tại Học viện Nghệ thuật vũ đạo Quốc gia Moskva ở Moskva, Nga và Trường Ba lê Hoàng gia ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.[26]

Hong Eun-chae từng là học viên của Def Dance Skool trong vòng hai năm. Cô cũng từng thử giọng cho JYP EntertainmentPledis Entertainment trước khi thực tập tại Source Music vào năm 2021.[27]

2022: Ra mắt với FEARLESS, Kim Ga-ram tạm ngừng hoạt động và rời nhóm, mini album thứ 2 ANTIFRAGILE

Thumb
Le Sserafim vào tháng 6 năm 2022

Ngày 14 tháng 3 năm 2022, Source Music công bố việc thành lập một nhóm nhạc nữ mới, với SakuraKim Chae-won là những thành viên đầu tiên.[28][29] Ngày 21 tháng 3, Hybe cho biết nhóm sẽ ra mắt công chúng vào tháng 5.[30] Các thành viên của nhóm lần lượt được công bố thông qua chuỗi teaser "The First Moment of Le Sserafim" từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 4 (theo thứ tự: Sakura,[31] Kim Ga-ram,[32] Hong Eun-chae,[33] Kim Chae-won,[34] Kazuha[35]Huh Yun-jin[36]). Ngày 13 tháng 4, Source Music công bố rằng Le Sserafim sẽ phát hành mini-album đầu tay mang tên gọi Fearless vào ngày 2 tháng 5 năm 2022.[37] Số đơn đặt trước của album đạt hơn 270.000 bản sau 7 ngày và tăng lên hơn 380.000 bản sau 16 ngày.[38] Trong vòng một ngày từ khi được phát hành, Fearless đạt doanh số hơn 175.000 bản.[39] Ngày 10 tháng 5 năm 2022, 8 ngày sau khi ra mắt công chúng, Le Sserafim giành được chiến thắng trên chương trình âm nhạc hàng tuần đầu tiên tại SBS M The Show.[40]

Từ trước khi nhóm chính thức ra mắt khán giả, Kim Ga-ram đã trở thành chủ đề gây tranh cãi. Cô bị cáo buộc thực hiện các hành vi bạo lực học đường với các học sinh khác khi đang học trung học cơ sở, hút thuốc lá và uống rượu bia khi chưa đủ tuổi. Hybe Corporation chối bỏ các cáo buộc, cho rằng Kim Ga-ram là nạn nhân chứ không phải người thực hiện hành vi bạo lực. Công ty cũng nói rằng họ sẽ thực hiện các hành động pháp lý với những người lan truyền tin đồn sai lệch, và Kim Ga-ram sẽ không bị loại khỏi đội hình chính thức.[41] Ngày 20 tháng 5 năm 2022, Hybe và Source Music cùng nhau đưa ra ý kiến về cáo buộc của Kim Ga-ram, thông báo cô sẽ tạm ngừng hoạt động cùng nhóm để đợi quá trình điều tra và Le Sserafim sẽ tiếp tục quảng bá với đội hình 5 thành viên.[42] Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Hybe CorporationSource Music thông báo chấm dứt hợp đồng độc quyền với Kim Ga-ram, cô chính thức rời nhóm, Le Sserafim sẽ tiếp tục hoạt động với 5 thành viên.[43][44]

Le Sserafim phát hành mini-album thứ hai Antifragile, vào ngày 17 tháng 10. Album là sản phẩm âm nhạc chính đầu tiên của nhóm với đội hình năm người sau khi Kim Ga-ram rời nhóm.[45] Antifragile đạt thứ hạng cao nhất là 14 trên bảng xếp hạng Billboard 200, giúp Le Sserafim trở thành nhóm nhạc nữ K-pop lọt vào bảng xếp hạng này nhanh nhất.[46] Ngày 24 tháng 11, Hybe phát hành bộ webtoon mang tên Crimson Heart, lấy cảm hứng từ thông điệp của nhóm là "tiến lên không sợ hãi" thông qua nền tảng Webtoon.[47]

2023: Debut tại Nhật Bản với FEARLESS Jp, album phòng thu đầu tiên UNFORGIVEN và đĩa đơn Tiếng Anh Perfect Night

Vào ngày 25 tháng 1 năm 2023, Le Sserafim ra mắt tại Nhật Bản với đĩa đơn Fearless.[48] Đĩa đơn bao gồm phiên bản tiếng Nhật của "Fearless" và "Blue Flame", cùng với bài hát gốc tiếng Nhật "Choices".[49] "Choices" được chọn làm bài hát chủ đề cho bộ phim truyền hình Nhật Bản 3000 Yen: How to Enrich Life.[50]

Vào ngày 16 tháng 3 năm 2023, Source Music thông báo rằng Le Sserafim sẽ trở lại vào đầu tháng 5.[51] Ngày 3 tháng 4, nhóm công bố album phòng thu đầu tiên của họ Unforgiven,[52] được phát hành vào ngày 1 tháng 5.[53]

Vào ngày 12 tháng 10, Source Music thông báo rằng nhóm sẽ phát hành đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên "Perfect Night" vào ngày 27 tháng 10, hợp tác với Blizzard Entertainment để quảng bá cho Overwatch 2.[54][55]

Các sự kiện trong trò chơi bao gồm các vật phẩm trang trí và chế độ chơi theo chủ đề của nhóm, diễn ra từ ngày 1 tháng 11 đến ngày 20 tháng 11. Nhóm cũng biểu diễn tại BlizzCon vào ngày 4 tháng 11.

Ngày 19 tháng 11, nhóm phát hành bài hát "Dresscode", ca khúc chủ đề cho bộ phim truyền hình live action Nhật Bản chuyển thể từ bộ manga Sexy Tanaka-san.[56]

2024: Trở lại với mini album thứ 3 EASY, lần đầu vào Billboard Hot 100 và tham dự lễ hội âm nhạc Coachella, mini album thứ 4 CRAZY


Vào ngày 22 tháng 1 năm 2024, Le Sserafim được xác nhận sẽ phát hành mini-album thứ ba của nhóm Easy, vào ngày 19 tháng 2. [57]

Album ra mắt ở vị trí thứ 8 trên Billboard 200, đồng thời với đĩa mở rộng With YOU-th của Twice ở vị trí thứ 1, đánh dấu tuần đầu tiên có hai nhóm nhạc nữ K-pop cùng xuất hiện trong top 10. Ca khúc chủ đề Easy ra mắt ở vị trí thứ 99 trên Billboard Hot 100, trở thành bài hát đầu tiên của nhóm lọt vào bảng xếp hạng này. [58]

Phiên bản tiếng Anh của ca khúc chủ đề và bài hát b-side "Smart" lần lượt được phát hành vào ngày 23 tháng 2 và 22 tháng 3. [59][60]

Vào tháng 4 năm 2024, nhóm đã biểu diễn tại Coachella cùng với Nile Rodgers, nơi họ trình diễn ca khúc mới mang tên "1-800-Hot-N-Fun". [61]

Cuối tháng 6 năm 2024, nhóm xác nhận sẽ comeback vào tháng 8 năm 2024. [62]

Vào ngày 10 tháng 7, bảo tàng âm nhạc Grammy Museum tại Los Angeles, California thông báo rằng một triển lãm đặc biệt về K-pop sẽ diễn ra vào tháng 8 năm 2024, trưng bày các phụ kiện và trang phục biểu diễn của các nghệ sĩ trực thuộc Hybe, bao gồm illit, Le Sserafim, Fromis 9, và BTS. [63]

Vào ngày 5 tháng 8, Le Sserafim thông báo sẽ phát hành mini album thứ tư mang tên Crazy vào ngày 30 tháng 8.[64] Phiên bản tiếng Anh và các bản phối khác nhau của bài hát chủ đề cùng tên, bao gồm sự hợp tác với nghệ sĩ người Mỹ Dashaun Wesley, được phát hành vào ngày 2 tháng 9.[65] Vào ngày 4 tháng 9, một phiên bản remix của bài hát chủ đề có sự góp mặt của ca sĩ người Anh PinkPantheress được phát hành, tiếp theo đó là một bản phối với nhà sản xuất người Pháp David Guetta vào ngày 9 tháng 9.[66][67]

Vào ngày 11 tháng 9, Le Sserafim biểu diễn "Crazy" và "1-800-Hot-N-Fun" tại MTV Video Music Awards lần đầu tiên và giành giải "PUSH Performance of the Year" với bài hát "Easy".[68][69]

Tháng 10, Le Sserafim thông báo đĩa đơn tiếng Nhật thứ ba mang tên "Crazy" sẽ phát hành vào ngày 11 tháng 12.[70] Vào ngày 10 tháng 11, nhóm lần đầu xuất hiện tại MTV Europe Music Awards với màn trình diễn "Chasing Lightning" và "Crazy". Họ được đề cử ba giải thưởng: Best Push, Best New và Best K-pop; và giành giải Best Push.[71]

Ngày 12 tháng 11, nhóm phát hành ca khúc "Star Signs" - vừa là bài hát phát hành trước của đĩa đơn tiếng Nhật "Crazy" sắp ra mắt, vừa là bài hát chiến dịch quảng cáo cho thương hiệu Nhật Bản Lumine.[72]

2025-hiện tại: Trở lại với mini album thứ 5 HOT, chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên 'EASY CRAZY HOT'

Ngày 17 tháng 2 năm 2025 sau 6 tháng kể từ mini album thứ tư Crazy, Le Sserafim thông báo sẽ phát hành mini album thứ năm Hot vào ngày 14 tháng 3.[73] Phiên bản tiếng Anh và các bản phối khác cho ca khúc chủ đề cùng tên đã được phát hành vào ngày 17 tháng 3.[74]

Ngày 28 tháng 2, nhóm tiếp tục công bố chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên "Easy Crazy Hot", khởi động tại Incheon vào ngày 19 và 20 tháng 4.[75]

Thành viên

  • Chú thích:
    • In đậm là trưởng nhóm.
    • Ngoài trừ trưởng nhóm, không có vị trí nào là được công bố chính thức.
Danh sách thành viên của Le Sserafim
Nghệ danh Tên khai sinh Ngày sinh Vị trí FIM'S CLUB Nơi sinh Quốc tịch
Latinh Hangul Kana Latinh Hangul Kana Hanja Hán-Việt
Thành viên hiện tại
Sakura 사쿠라 さくら Miyawaki Sakura 미야와키 사쿠라 みやわき さくら 宮脇咲良 Cung Hiếp Tiếu Lương 19 tháng 3, 1998 (27 tuổi) Lead Rapper, Visual,

Sub Vocalist

사꾸꾸 (SAKKUKKU) Kagoshima, Nhật Bản  Nhật Bản
Kim Chaewon 김채원 キム・チェウォン Kim Chae-won 김채원 キム・チェウォン 金采源 Kim Thái Nguyên 1 tháng 8, 2000 (24 tuổi) Lead Vocalist,

Dancer

김아치 (KIMACHI) Gangnam-gu, Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc
Huh Yunjin 허윤진 ホ・ユンジン Huh Yun-jin 허윤진 ホ・ユンジン 许允真 Hứa Doãn Trân 8 tháng 10, 2001 (23 tuổi) Main Vocalist,

Main Rapper, Dancer

흐리몽 (HEURIMONG)  Hoa Kỳ[76][77][78]
Jennifer Huh 제니퍼 허 ジェニファー・ホ
Kazuha 카즈하 かずは Nakamura Kazuha 나카무라 카즈하 なかむら かずは 中村一葉 Trung Thôn Nhất Diệp 9 tháng 8, 2003 (21 tuổi) Main Rapper, Main Dancer, Sub Vocalist 즈하롱 (ZUHARONG) Ōsaka, Nhật Bản  Nhật Bản
Hong Eunchae 홍은채 ホン・ウンチェ Hong Eun-chae 홍은채 ホン・ウンチェ 洪恩採 Hồng Ân Thái 10 tháng 11, 2006 (18 tuổi) Lead Dancer, Sub Vocalist, Maknae 홍삐삐 (HONGPPIPPI) Seongsu-dong, Seongdong-gu, Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc
Cựu thành viên
Kim Garam 김가람 キム・ガラム Kim Ga-ram 김가람 キム・ガラム 金佳覽 Kim Giai Lam 16 tháng 11, 2005 (19 tuổi) Lead Vocalist Không có[79] Gaebong-dong, Guro-gu, Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc

Thời gian hoạt động

Tranh cãi

Cáo buộc bạo lực học đường của Kim Ga-ram

Tháng 4 năm 2022, sau khi Kim Ga-ram được công bố là thành viên của Le Sserafim, cô bị cáo buộc là đã bắt nạt một số bạn cùng lớp và có những hành vi không phù hợp khi còn đi học. Những hình ảnh được cho là bằng chứng cho việc này, bao gồm ảnh có Kim Ga-ram xuất hiện, được lan truyền trên mạng Internet. Hybe phủ nhận các cáo buộc và cho biết cô là nạn nhân chứ không phải thủ phạm bạo lực học đường, đồng thời tuyên bố sẽ có hành động pháp lý với những người đã lan truyền tin đồn không đúng sự thật. Kim Ga-ram ra mắt công chúng với tư cách là thành viên của Le Sserafim vào ngày 2 tháng 5 năm 2022 đúng như kế hoạch.[80]

Ngày 16 tháng 5 năm 2022, một trong những người được cho là nạn nhân của Ga-ram đăng tải ảnh chụp một văn bản chính thức của nhà trường cho thấy cô từng bị hội đồng chống bắt nạn của trường kỷ luật vì hành vi bắt nạt. Hybe tiếp tục khẳng định rằng cô không phải là thủ phạm.[81]

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, Yoo Eun-seo (bí danh) tuyên bố mình đã chịu chấn thương và tổn thương tâm lý và phải được điều trị tâm lý vì bị Kim Ga-ram bắt nạt. Công ty luật Daeryun, người đại diện của Eun-seo, cho biết cô ấy muốn nhận được lời xin lỗi từ Kim Ga-ram và yêu cầu Hybe xem lại lập trường của công ty về các cáo buộc đối với cô. Hybe cho biết công ty đã không đưa ra lời giải thích nào vì vụ việc có liên quan đến trẻ vị thành niên và công ty cần điều tra những lời tuyên bố của cả hai bên, đồng thời chỉ trích cách công ty luật Daeryun xử lý vụ việc và yêu cầu giới truyền thông không đưa tin một chiều về vụ việc.[82] Một ngày sau, Le Sserafim huỷ bỏ màn biểu diễn của nhóm trên Music Bank và tạm hoãn một sự kiện ký tặng người hâm mộ trực tuyến.[83] Hybe cũng công bố rằng Kim Ga-ram sẽ tạm ngừng hoạt động cùng nhóm và Le Sserafim sẽ tiếp tục quảng bá với đội hình 5 thành viên.[42]

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Hybe ra thông báo chấm dứt hợp đồng độc quyền và Kim Ga-ram chính thức rời nhóm. Le Sserafim sẽ hoạt động với 5 thành viên.[84]

Các hoạt động thương mại và thiện nguyện

Hợp đồng quảng bá

Vào tháng 3 năm 2023, Le Sserafim được công bố là người mẫu đại diện cho Vita 500 Zero.[85]

Vào tháng 5, nhóm trở thành người mẫu đại diện cho Goobne.[86]

Ngày 13 tháng 10, thương hiệu thời trang xa xỉ của Pháp Louis Vuitton thông báo Le Sserafim sẽ gia nhập thương hiệu với tư cách là đại sứ toàn cầu.[87]

Hoạt động đầu tiên của họ trong vai trò này là chiến dịch quảng bá cho bộ sưu tập túi capsule độc quyền tại thị trường Hàn Quốc, với bối cảnh hình ảnh là cầu Jamsugyo.[88]

Tháng 4 năm 2024, cả năm thành viên đã diện trang phục thiết kế riêng của Nicolas Ghesquière (Louis Vuitton) cho màn trình diễn tại Coachella.[89]

Ngày 3 tháng 6 năm 2024, Jim Beam ra mắt chiến dịch toàn cầu mang tên "Enjoy it, our way!" cùng Le Sserafim.[90]

Đến tháng 8, nhóm được chọn làm người mẫu quảng cáo mới cho Mom’s Touch, thương hiệu gà rán số một tại Hàn Quốc.[91]

Tháng 9, Sony công bố Le Sserafim là đại sứ toàn cầu của hãng,[92] đồng thời nhóm cũng trở thành đại sứ toàn cầu cho Gelato Pique.[93]

Cũng trong tháng đó, sau khi phát hành Crazy, Le Sserafim hợp tác với Make-A-Wish Foundation và Empire State Building để thắp sáng tòa nhà với màu "fearless blue".[94][95]

Bắt đầu từ tháng 11, thương hiệu Nhật Bản Lumine đã lên kế hoạch cho chiến dịch Giáng sinh 2024 với Le Sserafim. Chiến dịch bao gồm ca khúc Star Signs (phát hành ngày 12/11), một chương trình rút thăm trúng thưởng sản phẩm, pop-up shop tại cửa hàng Lumine ở Shinjuku, các hình ảnh gốc do Yuni Yoshida đạo diễn, và nhiều nội dung khác.[96]

Cuối tháng 11, Le Sserafim trở thành người mẫu quảng cáo chính thức cho Indeed, công cụ tìm kiếm việc làm số một tại Nhật Bản. Từ ngày 26/11, loạt quảng cáo truyền hình của Indeed với sự góp mặt của nhóm đã được phát sóng trên toàn quốc.[97]

Tháng 3 năm 2025, Blizzard Entertainment thông báo sẽ hợp tác với Le Sserafim lần thứ hai để quảng bá cho Overwatch 2. Trong sự kiện lần này, trò chơi sẽ bổ sung các bộ trang phục mới cho D.Va, Illari, Ashe, Juno và Mercy.[98]

Hoạt động từ thiện

Tháng 3 năm 2025, Le Sserafim quyên góp 50 triệu KRW cho Hiệp hội Cứu trợ Thiên tai Quốc gia Hope Bridge nhằm hỗ trợ khắc phục hậu quả do cháy rừng tại các khu vực Ulsan, Gyeongbuk và Gyeongnam.[99]

Danh sách đĩa nhạc

Album phòng thu

Thêm thông tin Tên, Thông tin chi tiết ...
Danh sách album phòng thu, hiển thị các chi tiết được chọn, vị trí xếp hạng được chọn và số liệu doanh số
Tên Thông tin chi tiết Vị trí cao nhất Doanh số Chứng nhận
KOR
[100]
BEL
(FL)

[101]
CAN
[102]
FRA
[103]
GER
[104]
JPN
[105]
JPN
Hot

[106]
NZ
[107]
US
[108]
US
World

[109]
Unforgiven 132632022112861
Đóng

Đĩa mở rộng

Thêm thông tin Tên, Thông tin chi tiết ...
Tên Thông tin chi tiết Vị trí cao nhất Doanh số Chứng nhận
KOR
[100]
CAN
[102]
FIN
[116]
FRA
[103]
GER
[104]
JPN
[105]
JPN
Hot

[106]
NZ
[107]
US
[108]
US
World

[109]
Fearless 22731
Antifragile 2323711141
Easy 175123082
Crazy 2812425222671
Hot 1262791
"—" cho biết bài hát không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại khu vực này.
Đóng

Đĩa đơn

Thêm thông tin Tên, Năm ...
Tên Năm Thứ hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận Album
KOR
[138]
KOR
Songs

[139]
CAN
[140]
JPN
[141]
JPN
Hot

[142]
NZ
Hot

[143]
SGP
[144]
US
World

[145]
VIE
[146]
WW
[147]
Tiếng Hàn
"Fearless" 2022 949277123669 Fearless
"Antifragile" 949277123669 Antifragile
Tiếng Nhật
"Fearless (Japanese ver.)" 2023 11 Đĩa đơn không nằm trong album
"—" cho biết bài hát không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại khu vực này.
Đóng

Nhạc phim

Thêm thông tin Tên, Năm ...
Tên Năm Thứ hạng cao nhất Album
KOR
Down.

[154]
"Choices"[H] 2023 191 "Fearless" (Japanese version)
Đóng

Bài hát khác lọt vào bảng xếp hạng

Thêm thông tin Tên, Năm ...
Tên Năm Vị trí cao nhất Album
KOR
[156]
KOR
Songs

[157]
NZ
Hot

[158]
SGP
[159]
"The World Is My Oyster" 2022 [I] Fearless
"Blue Flame" 193[J]
"The Great Mermaid" [K]
"Sour Grapes" [L][M]
"The Hydra" [N] Antifragile
"Impurities" 14024
"No Celestial" 149
"Good Parts (When the Quality Is Bad but I Am)" 154[O]
"Burn the Bridge" 2023 [P] Unforgiven
"Fearless" (2023 version) 181
"Blue Flame" (2023 version) 199
"No-Return (Into the Unknown)" 98
"Fearnot (Between You, Me and the Lamppost)" (피어나) 130
"Flash Forward" 148
"Fire in the Belly" 167
"Good Bones" 2024 127 Easy
"Swan Song" 7825[Q]
"We Got So Much" 11335
"Chasing Lightning" [R] Crazy
"Pierrot" [S]16[T]
"1-800-Hot-N-Fun" [U]826
"Crazier" (미치지 못하는 이유) [V]34
"—" cho biết bài hát không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành tại khu vực này.
Đóng

Danh sách video

Video âm nhạc

Thêm thông tin Tên, Năm ...
Tên Năm Đạo diễn Tham khảo
"Fearless" 2022 Guzza (Kudo) [169]
"Antifragile" Soonsik Yang [170]
"Impurities" Jihye Yoon (Lumpens) [171]
"Fearless" (Japanese ver.) 2023 Soonsik Yang [172]
"Unforgiven" Soonsik Yang [173]
"Eve, Psyche & The Bluebeard's wife" Jihye Yoon (Lumpens) [174]
"Unforgiven" (Japanese ver.) Soonsik Yang [175]
"Perfect Night" Woogie Kim [176]
"Easy" 2024 Nina McNeely [177]
"Smart" Yong Seok Choi (Lumpens) [178]
"Crazy" Yunah Sheep [179]
"Crazy" (English ver.) Guzza (Kudo) [180]
"Crazy" (Japanese ver.) Jaeyeob Bang [181]
"Hot" 2025 Yunah Sheep [182]
"Come Over" Jeon Moonyong (Backroom) [183]
Đóng

Video khác

Thêm thông tin Tên, Năm ...
Tên Năm Đạo diễn Tham khảo
"Fearless Trailer 'The World Is My Oyster'" 2022 Soonsik Yang [184]
"Antifragile Trailer 'The Hydra'" NDVisual [185]
"Unforgiven Trailer 'Burn the Bridge'" 2023 Woogie Kim [186]
"Easy Trailer 'Good Bones'" 2024 Kwanggoeng Yu [187]
"Crazy Trailer 'Chasing Lightning'" Boseung Kim, Jaedon Lee (Studio Bone) [188]
"Hot Trailer 'Born Fire'" 2025 Yunah Sheep [189]
Đóng

Danh sách phim và chương trình

Chương trình chiếu mạng

Thêm thông tin Năm, Tên ...
Năm Tên Chú thích Tham khảo
2022-nay Le Play Những cảnh quay ngắn về hoạt động của các thành viên [190]
Episode Hậu trường về hoạt động của các thành viên [191]
Fim-Log Vlog cá nhân của các thành viên [192][193]
Leniverse Chương trình thực tế hàng tuần [194][195]
2022 LE SSERAFIM – The World Is My Oyster Chương trình tài liệu về quá trình thành lập nhóm và trước khi ra mắt [196]
Day Off Chương trình thực tế [197]
Day Off 2 in Jeju Chương trình thực tế [198]
2023 Day Off 3 VACANCE Chương trình thực tế [199]
2024 Day Off 4 in Japan Chương trình thực tế [200]
LE SSERAFIM - Make It Look Easy Chương trình tài liệu về hành trình của nhóm trong thời gian diễn ra chuyến lưu diễn 'FLAME RISES' và Lễ hội âm nhạc và nghệ thuật Thung lũng Coachella 2024 [201][202]
Đóng

Chuyến lưu diễn và buổi hòa nhạc

LE SSERAFIM TOUR 'FLAME RISES'

Thêm thông tin Ngày (2023), Địa điểm ...
Ngày (2023) Địa điểm Thành phố Quốc gia Người tham dự Doanh thu
12 tháng 8Jamsil Indoor StadiumSeoulHàn Quốc 10,503 / 10,503 $1,169,029
13 tháng 8
23 tháng 8Nippon Gaishi HallNagoyaNhật Bản 17,010 / 17,010 $1,634,569
24 tháng 8
30 tháng 8Sân vận động Quốc gia YoyogiTokyo 24,348 / 24,348 $2,265,468
31 tháng 8
6 tháng 9Hội trường Osaka-jōOsaka 20,056 / 20,056 $1,881,733
7 tháng 9
30 tháng 9AsiaWorld-ExpoHồng KôngHồng Kông 11,200 / 11,200 $1,783,991
3 tháng 10Jiexpo KemayoranJakartaIndonesia 2,625 / 3.767 $394,748
Tổng 85,742 / 86,884 $7,900,000[199]
Đóng
Thêm thông tin Buổi biểu diễn đã hủy bỏ, Ngày (2023) ...
Buổi biểu diễn đã hủy bỏ
Ngày (2023) Địa điểm Thành phố Quốc gia Lý do Tham khảo
7 tháng 10 Impact, Muang Thong Thani Băng Cốc Thái Lan Hủy bỏ vì lý do sức khỏe của các thành viên[203] [204]
8 tháng 10
Đóng

LE SSERAFIM TOUR 'EASY CRAZY HOT'

Thêm thông tin Ngày (2025), Địa điểm ...
Ngày (2025) Địa điểm Thành phố Quốc gia Người tham dự
19 tháng 4 Inspire Arena Incheon Hàn Quốc
20 tháng 4
6 tháng 5 [W] Nagoya International Exhibition Hall Nagoya Nhật Bản
7 tháng 5 [W]
13 tháng 5 Hội trường Osaka-jō Osaka
14 tháng 5
7 tháng 6 West Japan General Exhibition Center Annex [ja] Kitakyushu
8 tháng 6
12 tháng 6 Saitama Super Arena Saitama
14 tháng 6
15 tháng 6
19 tháng 7 Nhà thi đấu Đại học Thể thao Quốc gia Đài Loan Đài Bắc Đài Loan
25 tháng 7 AsiaWorld–Arena Hồng Kông Trung Quốc
2 tháng 8 SM Mall of Asia Arena Manila Philippines
9 tháng 8 Thunder Dome Băng Cốc Thái Lan
10 tháng 8
16 tháng 8 Sân vận động trong nhà Singapore Singapore
Tổng N/A
Đóng

Giải thưởng và đề cử

Lễ trao giải

Thêm thông tin Lễ trao giải, Năm ...
Tên lễ trao giải, năm tổ chức, hạng mục giải thưởng, người được đề cử, và kết quả đề cử
Lễ trao giải Năm Hạng mục Đề cử cho Kết quả Tham khảo
Asia Artist Awards 2022 Best Musician Award Le Sserafim Đoạt giải [206]
Rookie of the Year – Music Đoạt giải
DCM Popularity Award – Female Singer Đề cử [207]
Idolplus Popularity Award – Music Đề cử [208]
2023 Popularity Award – Singer (Female) Đề cử [209]
2024 Best Artist Award – Music Đoạt giải [210]
Best Music Video "Crazy" Đoạt giải
Performance of the Year (Daesang) Le Sserafim Đoạt giải
Asian Pop Music Awards 2023 Top 20 Songs of the Year (Overseas) "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đoạt giải [211]
Record of the Year (Overseas) Đề cử [212]
2024 "Easy" Đoạt giải [213]
Top 20 Songs of the Year (Overseas) Đoạt giải
Billboard Music Awards 2024 Top Global K-Pop Song "Perfect Night" Đề cử [214]
Circle Chart Music Awards 2023 Artist of the Year – Global Digital Music (May) "Fearless" Đoạt giải [215]
Artist of the Year – Global Digital Music (October) "Antifragile" Đoạt giải [216]
New Artist of the Year – Digital "Fearless" Đề cử [217]
New Artist of the Year – Physical Antifragile Đề cử
2024 Artist of the Year – Digital "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đoạt giải [218]
Artist of the Year – Streaming Unique Listeners Đoạt giải
Artist of the Year – Global Streaming Đề cử [219]
Mubeat Global Choice Award – Female Le Sserafim Đề cử [220]
The Fact Music Awards 2022 Next Leader Award Đoạt giải [221]
Fan N Star Choice Award (Artist) Đề cử [222]
Four Star Awards Đề cử [223]
Idolplus Popularity Award Đề cử [224]
2023 Best Music – Summer "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đề cử [225]
Idolplus Popularity Award Le Sserafim Đề cử [226]
Genie Music Awards 2022 Best Female Rookie Award Đề cử [227]
Golden Disc Awards 2023 Rookie Artist of the Year Đoạt giải [228]
Best Digital Song (Bonsang) "Fearless" Đề cử [229]
2024 Best Album (Bonsang) Unforgiven Đoạt giải [230]
Best Digital Song (Bonsang) "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đoạt giải
Album of the Year (Daesang) Unforgiven Đề cử
Song of the Year (Daesang) "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đề cử
Most Popular Artist (Female) Le Sserafim Đề cử [231]
2025 Best Digital Song (Bonsang) "Easy" Đề cử [232]
Best Group Le Sserafim Đoạt giải [233][234]
Most Popular Artist – Female Đoạt giải
Hanteo Music Awards 2024 Artist of the Year (Bonsang) Đoạt giải [235]
iHeartRadio Music Awards 2025 Favorite K-pop Dance Challenge "Smart " Đề cử [236]
Japan Record Awards 2024 Special International Music Award Le Sserafim Đoạt giải [237]
K-Global Heart Dream Awards 2022 K-Global Best Music Video Award Đoạt giải [238]
K-Global Super Rookie Award Đoạt giải
2023 K Global Best Music Award Đoạt giải [239]
Korea First Brand Awards [X] 2023 Best Rookie Idol (Female) Đoạt giải [240]
Korean Music Awards 2023 Rookie of the Year Đề cử [241]
Best K-Pop Song "Antifragile" Đề cử
Best K-Pop Album Antifragile Đề cử
MAMA Awards 2022 Favorite New Artist Le Sserafim Đoạt giải [242]
Artist of the Year Đề cử [243]
Best Dance Performance Female Group "Fearless" Đề cử
Best New Female Artist Le Sserafim Đề cử
Song of the Year "Fearless" Đề cử
Worldwide Fans' Choice Top 10 Le Sserafim Đề cử
2023 Favorite Dance Performance - Female Group Đoạt giải [244]
Album of the Year Unforgiven Đề cử [139]
Artist of the Year Le Sserafim Đề cử
Best Dance Performance Female Group "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đề cử
Best Female Group Le Sserafim Đề cử
Song of the Year "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đề cử
Worldwide Fans' Choice Top 10 Le Sserafim Đề cử
2024 Album of the Year Easy Đề cử [245]
Artist of the Year Le Sserafim Đề cử
Best Choreography "Crazy" Đề cử
Best Female Group Le Sserafim Đề cử
Best Dance Performance – Female Group "Easy" Đề cử
Song of the Year "Crazy" và "Easy" Đề cử
Worldwide Fans' Choice Top 10 Le Sserafim Đề cử
Melon Music Awards 2022 Best Performance – Female Đoạt giải [246]
Hot Trend Award Đoạt giải
Artist of the Year Đề cử [247]
Best New Artist Đề cử
Netizen Popularity Award Đề cử
Top 10 Artist Award Đề cử
2023 Millions Top 10 Artist Unforgiven Đoạt giải [248]
Top 10 Artist Award Le Sserafim Đoạt giải
Album of the Year Unforgiven Đề cử [249]
Artist of the Year Le Sserafim Đề cử
Best Female Group Đề cử
Favorite Star Award Đề cử
Song of the Year "Unforgiven" (featuring Nile Rodgers) Đề cử
2024 Album of the Year Easy Đề cử [250]
Best Female Group Le Sserafim Đề cử
Top 10 Artist Đề cử
MTV Europe Music Awards 2024 Best Push Đoạt giải [251]
Best K-Pop Đề cử [252]
Best New Đề cử
MTV Video Music Awards 2024 Push Performance of the Year "Easy" Đoạt giải [253]
Music Awards Japan 2025 Best K-pop Song in Japan "Perfect Night" Chưa công bố [254]
Best of Listeners' Choice: International Song Chưa công bố
"Crazy" Chưa công bố
Seoul Music Awards 2023 Rookie of the Year Le Sserafim Đoạt giải [255]
Popularity Award Đề cử [256]
Hallyu Special Award Đề cử
2024 Main Award (Bonsang) Đề cử [257]
Popularity Award Đề cử
Hallyu Special Award Đề cử
Đóng

Chương trình âm nhạc

The Show

Thêm thông tin Năm, Ngày ...
Năm Ngày Bài hát Điểm
2022 10 tháng 5 "FEARLESS" 8456
17 tháng 5 9670
2023 9 tháng 5 "UNFORGIVEN" 9340
Đóng

Show Champion

Thêm thông tin Năm, Ngày ...
Năm Ngày Bài hát Điểm
2022 1 tháng 6 "FEARLESS" 5127
2023 10 tháng 5 "UNFORGIVEN" 7521
2024 28 tháng 2 "EASY" 4261
11 tháng 9 "CRAZY" 4777
Đóng

M Countdown

Thêm thông tin Năm, Ngày ...
Năm Ngày Bài hát Điểm
2023 11 tháng 5 "UNFORGIVEN" 8575
2024 29 tháng 2 "EASY" 9428
7 tháng 3 8502
14 tháng 3 7900
12 tháng 9 "CRAZY" 7694
19 tháng 9 _
26 tháng 9 6608
Đóng

Music Bank

Thêm thông tin Năm, Ngày ...
Năm Ngày Bài hát Điểm
2022 13 tháng 5 "FEARLESS" 7881
4 tháng 11 "ANTIFRAGILE" 8786
11 tháng 11 6137
2023 12 tháng 5 "UNFORGIVEN" 13498
2024 1 tháng 3 "EASY" 9874
15 tháng 3 4492
2025 21 tháng 3 "HOT" 9917
Đóng

Show! Music Core

Thêm thông tin Năm, Ngày ...
Năm Ngày Bài hát Điểm
2022 3 tháng 12 "ANTIFRAGILE" 6384
10 tháng 12 6017
17 tháng 12 6396
2023 13 tháng 5 "UNFORGIVEN" 7172
9 tháng 12 "Perfect Night" 6034
16 tháng 12 6863
2024 2 tháng 3 "EASY" 6859
Đóng

Inkigayo

Thêm thông tin Năm, Ngày ...
Năm Ngày Bài hát Điểm
2023 14 tháng 5 "UNFORGIVEN" 8466
16 tháng 7 "Eve, Psyche & The Bluebeard's wife" 6463
2024 3 tháng 3 "EASY" 7400
10 tháng 3 7148
2025 6 tháng 4 "HOT" 5411
20 tháng 4 4556
Đóng

Chú thích

  1. Được Hybe Corporation, công ty mẹ của Source Music, mua lại vào tháng 5 năm 2020.
  2. Số liệu của Unforgiven:
    • Doanh thu nhạc số: 112,404[111]
    • Doanh thu vật lý: 4,688[112]
  3. Số liệu của Fearless:
    • Doanh thu nhạc số: 43,166[117]
    • Doanh thu vật lý: 2,828[118]
  4. Số liệu của Antifragile:
    • Doanh thu nhạc số: 72,314[120]
    • Doanh thu vật lý: 2,807[121]
  5. Số liệu của Easy:
    • Doanh thu nhạc số: 137,251[124]
    • Doanh thu vật lý: 3,115[125]
  6. Số liệu của Crazy:
    • Doanh thu nhạc số: 111,556[129]
    • Doanh thu vật lý: 1,810[130]
  7. Doanh số bán kết hợp cho Hot:
    • Danh thu nhạc số: 90,648[134]
    • Doanh thu vật lý: 1,595[135]
  8. "Choices" được phát hành trước vào ngày 8 tháng 1, 2023 như là nhạc phim của bộ drama Nhật Bản Sanzen Yen no Tsukaikata.[155]
  9. "The World Is My Oyster" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 73 trên Circle Download Chart.[160]
  10. "Blue Flame" không lọt vào RIAS Top Streaming Chart, nhưng đạt vị trí thứ 30 Top Regional Chart.[161]
  11. "The Great Mermaid" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 62 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Download Chart.[160]
  12. "Sour Grapes" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 64 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Download Chart.[160]
  13. "Sour Grapes" không lọt vào RIAS Top Streaming Chart, nhưng đạt vị trí thứ 27 trên Top Regional Chart.[162]
  14. "The Hydra" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 41 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Download Chart.[163]
  15. "Good Parts (When the Quality Is Bad but I Am)" không lọt vào RIAS Top Streaming Chart, nhưng đạt vị trí thứ 26 trên Top Regional Chart.[164]
  16. "Burn the Bridge" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 36 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Download Chart.[165]
  17. "Swan Song" không lọt vào RIAS Top Streaming Chart, nhưng đạt vị trí thứ 11 trên Top Regional Chart.[166]
  18. "Chasing Lightning" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 23 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Download Chart.[167]
  19. "Pierrot" không lọt vào Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 21 trên thành phần Circle Download Chart.[167]
  20. "Pierrot" Không lọt vào RIAS Top Streaming Chart, nhưng đạt vị trí thứ 28 trên Top Regional Chart.[168]
  21. "1-800-Hot-N-Fun" did not enter the Circle Digital Chart, nhưng đạt vị trí thứ 20 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Download Chart.[167]
  22. "Crazier" không lọt vào Circle Download Chart, nhưng đạt vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng thành phần Circle Digital Chart.[167]
  23. Huh Yun-jin đã vắng mặt trong các buổi biểu diễn ngày 6 và 7 tháng 5 tại Nagoya do đau lưng dưới.[205]
  24. Giải thưởng Korea First Brand 2023 đã chọn các thương hiệu tiềm năng được dự đoán sẽ dẫn đầu trong năm 2023 dựa trên các tiêu chí như phân tích xu hướng tiêu dùng, các khảo sát người tiêu dùng trên toàn quốc quy mô lớn, và đánh giá bởi các chuyên gia.[240]

Tham khảo

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.