HMS Hood (51)
tàu chiến-tuần dương lớp Admiral / From Wikipedia, the free encyclopedia
HMS Hood (51) là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn thiện và hạ thủy. Nó được xem là niềm tự hào của Hải quân Hoàng gia trong những năm giữa hai cuộc thế chiến và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được đặt theo vị đô đốc lừng danh vào thế kỷ 18 của Hải quân Hoàng gia, tử tước Samuel Hood (1724-1816). Hood đã phục vụ cho Hải quân Hoàng gia Anh trong hơn 20 năm trước khi bị đánh chìm trong cuộc đụng độ với thiết giáp hạm Đức Bismarck trong Trận chiến eo biển Đan Mạch vào ngày 24 tháng 5 năm 1941 với tổn thất vô cùng khủng khiếp về nhân mạng (1415/1418 thủy thủ phục vụ trên chiếc Hood thiệt mạng. Ba người còn sống được giải cứu bởi tàu khu trục Anh HMS Electra (H27) trong đêm ngày 24-rạng sáng ngày 25 tháng 5 năm 1941).
Tàu chiến-tuần dương HMS Hood (51), ngày 17 tháng 3 năm 1924 | |
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Hood |
Đặt tên theo | Samuel Hood |
Đặt hàng | 7 tháng 4 năm 1916 |
Xưởng đóng tàu | John Brown & Company |
Đặt lườn | 1 tháng 9 năm 1916 |
Hạ thủy | 22 tháng 8 năm 1918 |
Nhập biên chế | 15 tháng 5 năm 1920 |
Hoạt động | 1920–1941 |
Khẩu hiệu | Ventis Secundis[1] |
Biệt danh | Mighty Hood (Hood vĩ đại) |
Số phận | Bị đánh chìm trong trận chiến eo biển Đan Mạch, ngày 24 tháng 5 năm 1941 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu chiến-tuần dương Admiral |
Trọng tải choán nước | 46.680 tấn Anh (47.430 t) (đầy tải) |
Chiều dài | 860 ft 7 in (262,3 m) |
Sườn ngang | 104 ft 2 in (31,8 m) |
Mớn nước | 32 ft 0 in (9,8 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 5.332 hải lý (9.870 km; 6.140 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) (1931) |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Máy bay mang theo | 1 (1931-1932) |
Hệ thống phóng máy bay | 1 × máy phóng |
Là một trong số bốn tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Admiral được đặt hàng vào giữa năm 1916 trong "Kế hoạch Chiến tranh Khẩn cấp", thiết kế của Hood được sửa đổi đáng kể nhờ những bài học rút ra được sau trận Jutland nhưng thiết kế quá đắt đỏ so với ngân quỹ ngày càng eo hẹp vì chiến tranh của Hải quân Hoàng gia cũng như những yếu kém trong thiết kế của chúng đã dẫn đến việc đóng các con tàu chị em của nó (Rodney, Anson và Howe) bị tạm ngừng vào năm 1917 rồi tiến tới hủy bỏ hoàn toàn vào năm 1919, để lại Hood trở thành chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp này được chế tạo hoàn thiện và hạ thủy. Nó đã tham gia một số hoạt động biểu dương lực lượng từ khi đưa vào hoạt động vào năm 1920 cho đến khi chiến tranh nổ ra vào năm 1939, bao gồm các cuộc thực tập huấn luyện tại Địa Trung Hải và chuyến đi vòng quanh thế giới của Hải đội Đặc vụ trong những năm 1923-1924. Hood được phái đến Địa Trung Hải khi nổ ra cuộc Chiến tranh Ý-Abyssinia thứ hai, và khi cuộc Nội chiến Tây Ban Nha bùng phát, nó được chính thức biên chế vào Hạm đội Địa Trung Hải cho đến khi phải quay về Anh để đại tu vào năm 1939. Vào lúc này, sự hữu dụng của Hood đã giảm thiểu do tiến bộ kỹ thuật hải pháo. Nó được dự định trải qua một đợt tái cấu trúc lớn vào năm 1941 để khắc phục những điểm yếu, nhưng việc chiến tranh nổ ra đã khiến phải tung nó vào hoạt động mà không được nâng cấp.
Khi chiến tranh với Đức được tuyên bố vào tháng 9 năm 1939, Hood đang hoạt động tại khu vực chung quanh Iceland, và đã trải qua nhiều tháng tiếp theo tại vùng biển Na Uy săn tìm các tàu cướp tàu buôn và tàu vượt phong tỏa đối phương. Sau một đợt đại tu ngắn động cơ, nó lên đường như là soái hạm của Lực lượng H tham gia vào việc tiêu diệt Hạm đội Pháp tại Mers-el-Kebir. Nó được phái quay trở về Scapa Flow để hoạt động hộ tống đoàn tàu vận tải và sau đó là phòng thủ chống lại nguy cơ đổ bộ của hạm đội Đức. Vào tháng 5 năm 1941, nó cùng với thiết giáp hạm Prince of Wales được lệnh đánh chặn thiết giáp hạm Đức Bismarck đang trên đường tiến ra Đại Tây Dương tấn công các đoàn tàu vận tải Đồng Minh. Vào ngày 24 tháng 5 năm 1941, trong khuôn khổ Trận chiến eo biển Đan Mạch, Hood bị bắn trúng nhiều phát đạn pháo Đức và đã nổ tung; một tổn thất gây ảnh hưởng tinh thần nghiêm trọng cho phía Anh. Thủ tướng Winston Churchill ra lệnh cho Hải quân Hoàng gia phải "đánh chìm cho được Bismarck", và họ đã hoàn thành mệnh lệnh này vào ngày 26-27 tháng 5.[2]
Hải quân Hoàng gia Anh đã tiến hành hai cuộc điều tra nhằm tìm hiểu lý do tổn thất con tàu quá nhanh chóng. Cuộc điều tra thứ nhất, được lập tức tiến hành sau khi nó chìm, đã kết luận rằng hầm đạn phía sau đã phát nổ sau khi một quả đạn pháo của Bismarck xuyên thủng vỏ giáp con tàu. Cuộc điều tra thứ hai được tổ chức sau khi có những lời than phiền ủy ban điều tra đã không xem xét các giả thuyết khác, như là phát nổ các quả ngư lôi của con tàu. Mặc dù được tiến hành sâu rộng hơn lần trước, cuộc điều tra thứ hai vẫn lặp lại kết luận như lần đầu. Cho dù đã có kết luận chính thức, một số sử gia tiếp tục tin rằng các quả ngư lôi là nguyên nhân làm mất con tàu, trong khi số khác đề xuất một tai nạn kích nổ bên trong một trong các tháp pháo đã lan đến hầm đạn. Các sử gia khác tập trung vào nguyên nhân gây nổ hầm đạn. Việc khám phá ra xác tàu đắm của Hood vào năm 2001 đã khẳng định kết luận của cả hai ủy ban điều tra, cho dù nguyên nhân chính xác tại sao hầm đạn phát nổ sẽ mãi mãi là một bí mật, vì khu vực này của con tàu đã bị phá hủy hoàn toàn trong vụ nổ.