![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/6a/USS_Fletcher_%2528DD-445%2529_off_New_York%252C_1942.jpg/640px-USS_Fletcher_%2528DD-445%2529_off_New_York%252C_1942.jpg&w=640&q=50)
Fletcher (lớp tàu khu trục)
Lớp tàu khu trục đa nhiệm của Hoa Kỳ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Lớp tàu khu trục Fletcher là một lớp tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp tàu được thiết kế vào năm 1939 do những điểm không hài lòng trên những kiểu soái hạm khu trục thuộc các lớp Porter và Somers dẫn trước. Một số chiếc trong lớp đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam.[3]
![]() Tàu khu trục USS Fletcher trong cấu hình nguyên thủy ngoài khơi New York, năm 1942 | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp tàu khu trục Fletcher |
Bên khai thác |
|
Lớp trước | lớp Gleaves |
Lớp sau | lớp Allen M. Sumner |
Kinh phí |
|
Thời gian đóng tàu | 1941-1945 |
Thời gian hoạt động | 1942-1971 (Hoa Kỳ)/2001 (Mexico) |
Hoàn thành | 175 |
Bị mất | 19 + 6 không được sửa chữa |
Giữ lại | |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Fletcher |
Kiểu tàu | Tàu khu trục |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 376,5 ft (114,8 m) |
Sườn ngang | 39,5 m (129 ft 7 in) |
Mớn nước | 17,5 m (57 ft 5 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 36,5 hải lý trên giờ (67,6 km/h; 42,0 mph) |
Tầm xa | 5.500 nmi (10.190 km; 6.330 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)[2] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 329 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
Hải quân Hoa Kỳ đã nhập biên chế 175 tàu khu trục lớp Fletcher từ năm 1942 đến năm 1944, nhiều hơn bất kỳ lớp tàu khu trục nào khác, và thiết kế của lớp này nói chung được xem là thành công. Chúng có tốc độ thiết kế 38 hải lý trên giờ (70 km/h; 44 mph) và một dàn hỏa lực năm pháo 5 in (130 mm)/38 caliber trên các bệ nòng đơn cùng mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm) trên hai bệ năm nòng trên trục giữa tàu.[4] Các lớp tàu khu trục Allen M. Sumner và Gearing tiếp theo sau là những cải biến từ lớp Fletcher.
Những chiếc Fletcher với tầm hoạt động xa đã tham gia mọi vai trò được đòi hỏi nơi một tàu khu trục: Chiến tranh phòng không và Chiến tranh chống tàu ngầm cũng như các hoạt động mặt biển;[3] chúng có khả năng bao phủ các khoảng cách lớn trong các hoạt động hạm đội tại Thái Bình Dương. Trong thực tế, chúng hầu như phục vụ thuần túy tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, ghi chiến công đánh chìm 29 tàu ngầm Hải quân Đế quốc Nhật Bản.[3] Trong một nỗ lực vượt bậc của ngành đóng tàu, lớp Fletcher được chế tạo tại các xưởng đóng tàu khắp Hoa Kỳ; và sau khi xung đột kết thúc, 11 chiếc đã được bán cho những nước là đối thủ trước đây trong chiến tranh: Tây Đức, Ý và Nhật Bản, cũng như cho hải quân nhiều nước khác, tiếp tục phục vụ nổi bật trong nhiều năm tiếp theo.
Ba chiếc trong lớp đã được bảo tồn như tàu bảo tàng tại Hoa Kỳ, cùng một chiếc khác tại Hy Lạp.