Darius I
From Wikipedia, the free encyclopedia
Darius I (Tiếng Ba Tư cổ: Dārayava(h)uš, Tiếng Ba Tư mới: داریوش Dāriush; k. 550–486 TCN) là vị vua thứ ba của Đế quốc Achaemenes Ba Tư. Được gọi là Darius Đại đế, dưới triều đại của ông, đế quốc Ba Tư có lãnh thổ rộng lớn nhất khi nó bao gồm phần lớn Tây Á, vùng Kavkaz, một phần của khu vực Balkan (Thracia-Macedonia và Paeonia), hầu hết các khu vực ven bờ biển Hắc Hải, những vùng đất ở Bắc Kavkaz, Trung Á, tới tận là Thung lũng Indus ở xa về phía đông, và một phần ở phía bắc và đông bắc châu Phi, bao gồm Ai Cập (Mudrâya),[2] miền đông Libya và miền ven biển Sudan.[3][4]
Darius | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Shahanshah Vua của Babylon Pharaông của Ai Cập | |||||||||
Tranh khắc của Darius I ở Persepolis | |||||||||
Hoàng đế Ba Tư | |||||||||
Tại vị | Tháng 9 năm 522 TCN đến Tháng 10 năm 486 TCN (36 năm) | ||||||||
Đăng quang | Pasargadae | ||||||||
Tiền nhiệm | Bardiya | ||||||||
Kế nhiệm | Xerxes I | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 550 TCN | ||||||||
Mất | Tháng 10 năm 486 TCN (khoảng 64 tuổi) | ||||||||
An táng | Naqsh-e Rustam, Iran | ||||||||
Phối ngẫu | Atossa; Artystone; Parmys; Phratagone; Phaidime; con gái của Gobryas | ||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||
| |||||||||
Tên ngai |
Stutre | ||||||||
Tên Horus |
Menkeib | ||||||||
Hoàng tộc | Achaemenes | ||||||||
Thân phụ | Hystaspes | ||||||||
Thân mẫu | Rhodogune | ||||||||
Tôn giáo | Bái hoả giáo[1] |
Darius lên ngôi bằng cách lật đổ Gaumata, một thầy pháp tiếm vị và mạo danh mình là Bardiya, với sự hỗ trợ của sáu gia đình quý tộc Ba Tư khác. Darius đã được trao vương miện ngay sáng hôm sau đó. Vị tân vương vừa mới lên ngôi đã phải đối mặt với những cuộc nổi loạn xảy ra toàn quốc và phải dập tắt chúng. Một sự kiện quan trọng trong triều đại của Darius là cuộc viễn chinh nhằm chinh phạt Hy Lạp và bình định thành Athena và Eretria vì họ đã giúp đỡ phiến quân trong khởi nghĩa Ionia. Mặc dù cuộc viễn chinh kết thúc với thất bại trong trận Marathon, Darius đã thành công trong việc tái chinh phục Thracia, mở rộng cương thổ của đế quốc sau khi chinh phục Macedonia, Cyclades và đảo Naxos và vụ cướp phá thành Eretria.
Darius tổ chức lại đế chế bằng cách chia nó thành nhiều tỉnh và đặt quan trấn thủ (satrap) để cai trị. Ông thiết lập một hệ thống tiền tệ mới thống nhất và chọn tiếng Aram làm ngôn ngữ chính thức của đế chế. Ông cũng đưa đế chế lên một vị thế cao hơn bằng cách cho xây dựng đường đi lại và sử dụng hệ thống đo lượng tiêu chuẩn. Qua những cái cách này, đế chế trở nên trung ương hoá và thống nhất hơn. Darius cũng cho xây dựng trên khắp mọi miền đế quốc, tập trung ở Susa, Pasargadae, Persepolis, Babylon và Ai Cập. Cuộc đời và sự nghiệp của Darius được biết đến qua ghi nhận của các sử gia Hy Lạp cổ đại và qua một bi văn cổ khắc trên khối đá, được gọi là bi văn Behistun, một bằng chứng quan trọng về ngôn ngữ Ba Tư cổ. Tuy nhiên, một vài dữ kiện trên bi văn này được xem là hư cấu.[5][6]
Darius I được đề cập đến trong các sách Haggai, Zechariah và Ezra–Nehemiah của Kinh thánh.
Đế quốc Achaemenes dưới triều đại của Darius kiểm soát phân số dân số thế giới lớn nhất, không có bất kỳ đế quốc nào trong lịch sử cai trị số phần trăm dân số nhiều hơn Đế quốc Achaemenes. Dựa trên ước tính nhân khẩu học lịch sử, Darius I cai trị khoảng 50 triệu người, hoặc ít nhất là 44% dân số thế giới lúc bấy giờ.[7]