Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina
Một trong những nước cộng hòa hợp thành của Liên bang Xô viết / From Wikipedia, the free encyclopedia
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina (tiếng Ukraina: Українська Радянська Соціалістична Республіка, Ukrainska Radianska Sotsialistychna Respublika УРСР; tiếng Nga: Украинская Советская Социалистическая Республика УССР), viết tắt là CHXHCNXV Ukraina và còn gọi là Ukraina Xô viết, là một trong các nước cộng hòa cấu thành của Liên bang Xô viết từ năm 1922 đến 1991.[9] trong quốc ca CHXHCNXV Ukraina, nước cộng hòa chỉ được gọi là Ukraina. Theo mô hình một đảng của Liên Xô, CHXHCNXV Ukraina do Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền, thông qua chi nhánh là Đảng Cộng sản Ukraina.
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina
Українська Радянська Соціалістична Республіка(tiếng Ukraina) Украинская Советская Социалистическая Республика(tiếng Nga)[1] |
|||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1919–1991 1941–1944: Đức chiếm đóng | |||||||||||||||||||||||||||
Tiêu ngữ: Пролетарі всіх країн, єднайтеся!(tiếng Ukraina) Proletari vsikh krain, yednaitesia! (chuyển tự) "Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!" | |||||||||||||||||||||||||||
Quốc ca: Інтернаціонал(Ukraina) Internatsional (chuyển tự) "Quốc tế ca" Державний гімн Української Радянської Соціалістичної Республіки(Ukraina) Derzhavnyi himn Ukrainskoi Radianskoi Sotsialistychnoi Respubliky (chuyển tự) "Quốc ca CHXHCNXV Ukraina" | |||||||||||||||||||||||||||
Vị trí CHXHCNXV Ukraina (đỏ) bên trong Liên Xô từ 1954 đến 1991 | |||||||||||||||||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||||||||||||||||
Vị thế | Nhà nước vệ tinh của Nga Xô viết (1919–1922) Nước cộng hòa của Liên Xô (1922–1991) | ||||||||||||||||||||||||||
Thủ đô | Kharkov (1919–1934)[2] Kiev (1934–1991)[3] | ||||||||||||||||||||||||||
Thành phố lớn nhất | Kiev | ||||||||||||||||||||||||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Nga[4][5] Tiếng Ukraina[5][6] (Tiếng Ukraina được tuyên bố là ngôn ngữ chính thức duy nhất vào năm 1990)a | ||||||||||||||||||||||||||
• Ngôn ngữ được công nhận | Belarus, Tatar Krym, Hungary, Romania, Ba Lan | ||||||||||||||||||||||||||
Tôn giáo chính | Chủ nghĩa vô thần nhà nước (xem như chính thức đến thời glasnost) Giáo hội Chính thống giáo Nga (thực tế) Giáo hội Công giáo Hy Lạp (phi pháp) Hồi giáo Sunni Do Thái giáo | ||||||||||||||||||||||||||
Tên dân cư | Người Ukraina, Người Liên Xô | ||||||||||||||||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||||||||||||||||
Chính phủ | 1919–1990: Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết một đảng Marx-Lenin đơn nhất 1990–1991: Cộng hòa nghị viện đơn nhất | ||||||||||||||||||||||||||
Bí thư thứ nhất | |||||||||||||||||||||||||||
• 1918–1919 (đầu tiên) | Emanuel Kviring | ||||||||||||||||||||||||||
• 1990 (cuối cùng) | Stanislav Hurenko | ||||||||||||||||||||||||||
Lãnh đạo nhà nước | |||||||||||||||||||||||||||
• 1919–1938 (đầu tiên) | Grigory Petrovsky | ||||||||||||||||||||||||||
• 1990–1991 (cuối cùng) | Leonid Kravchuk | ||||||||||||||||||||||||||
Lãnh đạo chính phủ | |||||||||||||||||||||||||||
• 1918–1919 (đầu tiên) | Georgy Pyatakov | ||||||||||||||||||||||||||
• 1988–1991 (cuối cùng) | Vitold Fokin | ||||||||||||||||||||||||||
Lập pháp | Đại hội Xô viết (1919–1938)[7] Xô viết Tối cao (1938–1991)[8] | ||||||||||||||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||||||||||||||
• Tuyên ngôn CHXVXHCN Ukraina | 10 tháng 3 năm 1919 | ||||||||||||||||||||||||||
30 tháng 12 năm 1922 | |||||||||||||||||||||||||||
15 tháng 11 năm 1939 | |||||||||||||||||||||||||||
2 tháng 8 năm 1940 | |||||||||||||||||||||||||||
24 tháng 10 năm 1945 | |||||||||||||||||||||||||||
19 tháng 2 năm 1954 | |||||||||||||||||||||||||||
• Tuyên ngôn chủ quyền | 16 tháng 7 năm 1990 | ||||||||||||||||||||||||||
24 tháng 8 năm 1991 | |||||||||||||||||||||||||||
1 tháng 12 năm 1991 | |||||||||||||||||||||||||||
26 tháng 12 năm 1991 | |||||||||||||||||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||||||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||||||||||||||||
• Tổng cộng | 603,700 km2 233 mi2 | ||||||||||||||||||||||||||
Dân số | |||||||||||||||||||||||||||
• Kết quả điều tra năm 1989 | 51.706.746 | ||||||||||||||||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||||||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | rúp Liên Xô (руб) (SUR) | ||||||||||||||||||||||||||
Thông tin khác | |||||||||||||||||||||||||||
HDI? (1990) | 0.725 cao | ||||||||||||||||||||||||||
Mã điện thoại | 7 03/04/05/06 | ||||||||||||||||||||||||||
Tên miền Internet | .su | ||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||
Các phiên bản đầu tiên của CHXHCNXV Ukraina được thành lập trong Cách mạng Nga, đặc biệt là sau Cách mạng Bolshevik. Trong Chiến tranh Ukraina–Xô viết, quân đội Bolshevik đánh bại Cộng hòa Nhân dân Ukraina, và Bolshevik thành lập Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina do nước Nga Xô viết cai quản vào tháng 12 năm 1917. Năm 1922, Ukraina Xô viết là một trong bốn nước cộng hòa Xô viết ký kết hiệp định về việc thành lập Liên Xô. CHXHCNXV Ukraina trở thành một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc vào năm 1945.[10] Khi Liên Xô tan rã năm 1991, CHXHCNXV Ukraina trở thành nhà nước Ukraina độc lập, nhưng hiến pháp Xô viết được sửa đổi vẫn có hiệu lực đến năm 1996.[11]
Biên giới của nước cộng hòa đã thay đổi nhiều lần, phần lớn Tây Ukraina ngày nay được giành lấy theo Hiệp ước Molotov–Ribbentrop của Xô-Đức, khi sáp nhập Đông Galicia và Volyn vào năm 1939, một phần đáng kể từ Romania vào năm 1940, và sáp nhập lãnh thổ Ruthenia Karpat từ Tiệp Khắc vào năm 1945. Từ khi thành lập Ukraina Xô viết năm 1919 cho đến năm 1934, thành phố Kharkov là thủ đô; tuy nhiên, trụ sở chính phủ của nước cộng hòa sau đó được chuyển đến thành phố Kiev vào năm 1934, và ở lại Kiev trong phần thời gian còn lại.
Về mặt địa lý, CHXHCNXV Ukraina nằm tại Đông Âu, phía bắc biển Đen, và giáp với các nước cộng hòa Xô viết Moldavia (từ năm 1940), Byelorussia và Nga, và các quốc gia Romania, Hungary, Tiệp Khắc và Ba Lan. Biên giới của nước cộng hòa với Tiệp Khắc hình thành điểm biên giới cực tây của Liên Xô. Theo điều tra nhân khẩu năm 1989 của Liên Xô, Ukraina có dân số 51.706.746 (đứng thứ hai sau Nga), con số này giảm mạnh sau khi Liên Xô tan rã năm 1991 do tỷ lệ di cư cao, ô nhiễm môi trường do thảm họa Chernobyl năm 1986 và chứng nghiện rượu ở nam giới.[12][13]