Chiến tranh Nga-Circassia
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Nga-Circassia (tiếng Adygea: Урыс-адыгэ зауэ, chuyển tự Wurıs-adığə zawə; tiếng Nga: Русско-черкесская война; 1763–1864; còn được gọi là cuộc xâm lược của Nga vào Circassia) là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Circassia[39] bắt đầu từ năm 1763 với việc Circassia chống lại tham vọng thôn tính của Đế quốc Nga.[40] Cuộc chiến kết thúc sau 101 năm với đội quân cuối cùng của Circassia bị đánh bại vào ngày 21 tháng 5 năm 1864, khiến quốc gia này kiệt quệ và thương vong nặng nề cho cả hai bên, đây cũng là cuộc chiến dài nhất mà Nga từng tiến hành trong lịch sử.[41] Chiến tranh kết thúc với việc Đế quốc Nga tiến hành cuộc diệt chủng Circassian[upper-roman 1] nhằm tiêu diệt một cách có hệ thống những người Circassia.[34][47][48] Ước tính có tới 1.500.000 người Circassia (95-97% tổng dân số) bị giết hoặc bị trục xuất đến Đế chế Ottoman (đặc biệt là khu vực Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), hình thành cộng đồng người Circassian ở đây.[49][50][39]
Chiến tranh Nga-Circassia | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Kavkaz | |||||||||
Lực lượng Circassia và Nga giao chiến | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Hỗ trợ ngoại giao: Đệ nhị Đế quốc Pháp (sau năm 1829)[10][11][12] |
Liên minh Circassian
Hỗ trợ ngoại giao và trang bị : Đế quốc Ottoman (cho đến năm 1829)[13] Vương quốc Anh (cho đến năm 1856)[14] | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Catherine II Nikolai I Alexander I Alexander II Michael Nikolaevich Grigory Zass Ivan Paskevich Aleksey Yermolov Georgi Emmanuel Maxim Grigorievich Vlasov David Dadiani Pyotr Bagration Dmitry Milyutin Aleksandr Baryatinsky Pavel Tsitsianov Pavel Grabbe Nikolay Yevdokimov Aytech Qanoqo (D) Fyodor Bursak …và những người khác |
Shuwpagwe Qalawebateqo' Đơn vị tình nguyện nước ngoài: Teofil Lapinski (1857–1859)James Stanislaus Bell (1836–1839) | ||||||||
Thành phần tham chiến | |||||||||
Trước năm 1860:
Sau năm 1860: Lính tình nguyện nước ngoài | |||||||||
Lực lượng | |||||||||
150,000[19]–300,000[20] lính chính quy | 20,000[21]–60,000[22] lính chính quy | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Binh lính thiệt mạng: 650,000[23][24]–840,000[25] (Ước tính) Dân thường thiệt mạng: 1,000-5,000[26] (Ước tính) Tổng số người chết: 651,000[27]–845,000[28] (Ước tính) |
Binh lính thiệt mạng: 500,000 (Ước tính)[29][30] Dân thường thiệt mạng: 1,000,000+[31] Tổng số người chết: 1,500,000+[30][32][31] (Ước tính) | ||||||||
Trong cuộc diệt chủng Circassia, khoảng 1.500.000[33][34][35][36][37] người Caucasia cao nguyên bản địa đã bị trục xuất chủ yếu đến Đế quốc Ottoman, và một số lượng nhỏ hơn nhiều đến Ba Tư. Một số không xác định trong số những người bị trục xuất đã chết trong quá trình trục xuất.[38] |
Trong chiến tranh, Đế quốc Nga không công nhận Circassia là một khu vực độc lập và coi đây là vùng đất của Nga dưới sự chiếm đóng của phiến quân, mặc dù không có sự kiểm soát của Nga đối với vùng đất này.[49] Các tướng lĩnh Nga gọi người Circassia không phải bằng tên dân tộc của họ, mà gọi là "người leo núi", "kẻ cướp" hoặc "người cặn bã ở núi".[49][51] Trong cuộc nổ ra như một cuộc xung đột biệt lập, sự bành trướng của Nga qua toàn bộ khu vực đã sớm đẩy một số quốc gia khác ở Kavkaz vào cuộc xung đột. Do đó, cuộc chiến thường được coi là nửa phía tây của Chiến tranh Kavkaz.
Cuộc chiến đã trở thành một chủ đề của chủ nghĩa xét lại lịch sử và là một vấn đề gây tranh cãi do các nguồn tin Nga sau này hầu hết phớt lờ hoặc coi thường cuộc xung đột, các phương tiện truyền thông và quan chức nhà nước Nga còn tuyên bố rằng "cuộc xung đột như vậy chưa bao giờ xảy ra và Circassia tự nguyện gia nhập Nga vào thế kỷ 16".[10]