Chiến tranh Cách mạng Mỹ
1775–1783 chiến tranh giữa Anh và Mười ba thuộc địa, giành được độc lập như Hoa Kỳ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775 - 1783), còn được gọi là Chiến tranh giành độc lập Mỹ,[43] là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Anh và Mười ba thuộc địa (liên minh với Pháp) tuyên bố độc lập và khai sinh Hoa Kỳ.[N 1]
Chiến tranh Cách mạng Mỹ | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Theo chiều kim đồng hồ: Hầu tước Cornwallis đầu hàng sau cuộc vây hãm Yorktown, Trận Trenton, tướng Warren hi sinh tại trận đồi Bunker, trận Long Island, trận Guilford Court House | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Mười ba thuộc địa Đồng tham chiến: |
Đệ Nhất Đế quốc Anh Lính đánh thuê Đức: | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
George Washington William V |
George III | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Hoa Kỳ: Các đồng minh: Đồng minh bản địa Mỹ: |
Đế quốc Anh: Trung quân: Lính Hanover: Lính đánh thuê Đức: Đồng minh bản địa Mỹ: | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Hoa Kỳ: Pháp: Tây Ban Nha: Hà Lan: Tổng cộng: 37,000–82,500+ lính chết |
Anh: Đức: Phe trung thành: Tổng cộng: 78,200+ lính chết |
Sau năm 1765, sự khác biệt về mặt tư tưởng và chính trị ngày càng sâu sắc làm căng thẳng mối quan hệ giữa Vương quốc Anh và các thuộc địa của nó. Các cuộc biểu tình của phái yêu nước chống lại việc đánh thuế mà không có đại diện theo Đạo luật Tem và leo thang thành các vụ tẩy chay hàng hóa Anh, lên đến đỉnh điểm vào năm 1773 với vụ việc nhóm Những đưa con của Tự do phá hủy một lô hàng trà tại Cảng Boston. Anh đáp trả bằng cách đóng cửa Cảng Boston và thông qua một loạt các biện pháp trừng phạt chống lại Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Nhân dân Massachusetts đề ra nghị quyết Suffolk, và thành lập một chính phủ bí mật nhằm giành quyền kiểm soát vùng nông thôn khỏi tay của Hoàng gia Anh. Mười hai thuộc địa đã thành lập ra Đại hội lục địa để phối hợp kháng chiến, tạo ra các Ủy ban và công ước nắm quyền lực một cách hiệu quả.[44]
Những nỗ lực của Anh nhằm giải giáp lực lượng dân quân Massachusetts tại Concord đã dẫn đến một cuộc chiến mở vào ngày 19 tháng 4 năm 1775. Lực lượng dân quân sau đó bao vây Boston, buộc Anh phải di tản vào tháng 3 năm 1776 và Quốc hội đã chỉ định George Washington chỉ huy Quân đội Lục địa. Cùng lúc đó, người Mỹ thất bại trong nỗ lực xâm chiếm Quebec và lan rộng cuộc nổi dậy chống lại người Anh. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1776, Đại hội lục địa lần thứ hai đã bỏ phiếu giành độc lập, đưa ra tuyên bố vào ngày 4 tháng 7. Ngài William Howe đã phát động một cuộc phản công của Anh, chiếm lại New York và bẻ gãy ý chí của Mỹ. Tuy nhiên, chiến thắng tại Trenton và Princeton đã khôi phục niềm tin của người Mỹ. Năm 1777, người Anh đã phát động một cuộc xâm lược từ Quebec bởi tướng John Burgoyne, với ý định cô lập các thuộc địa New England. Thay vì hỗ trợ nỗ lực này, Howe đã dẫn dắt quân đội của ông với một chiến dịch riêng chống lại bang Philadelphia và Burgoyne đã bị thảm bại hoàn toàn tại trận Saratoga vào tháng 10 năm 1777.
Thất bại của Burgoyne có hậu quả đáng kể. Pháp chính thức liên minh với người Mỹ và tham chiến vào năm 1778, và Tây Ban Nha cũng nhảy vào với tư cách là đồng minh của Pháp nhưng không phải là đồng minh của Hoa Kỳ vào năm sau đó. Năm 1780, Vương quốc Mysore tấn công người Anh ở Ấn Độ, và căng thẳng giữa Anh và Hà Lan nổ ra thành một cuộc chiến toàn diện. Ở Bắc Mỹ, người Anh thực hiện "chiến lược miền Nam" do Charles Cornwallis lãnh đạo, nơi đây có một cuộc nổi dậy của phe Trung quân ủng hộ Hoàng gia, nhưng chỉ một số ít người xung phong. Cornwallis bị phản công tại Trận Núi Vua và Trận Cowpens. Ông buộc phải rút lui về Yorktown, Virginia, với dự định để sơ tán, nhưng một chiến thắng hải quân quyết định của Pháp đã không cho ông ta trốn thoát. Liên quân Pháp-Mỹ do Comte de Rochambeau và Washington lãnh đạo sau đó đã bao vây quân đội của Cornwallis và, không có dấu hiệu cứu trợ, Cornwallis chịu hàng vào tháng 10 năm 1781.
Đảng Whig của Anh từ lâu đã phản đối Đảng Tory ủng hộ chiến tranh trong Quốc hội, và sự đầu hàng này đã giúp họ chiếm thế thượng phong. Đầu năm 1782, Nghị viện đã bỏ phiếu chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Mỹ, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp diễn ở các nước hải ngoài. Anh vẫn bị bao vây ở Gibraltar nhưng đã giành được một chiến thắng vang dội trước hải quân Pháp. Vào ngày 3 tháng 9 năm 1783, các bên chủ chiến đã ký Hòa ước Paris, trong đó Vương quốc Anh đồng ý công nhận chủ quyền của Hoa Kỳ và chính thức chấm dứt chiến tranh. Sự tham chiến của Pháp mang tính quyết định,[45] nhưng Pháp lại kiếm được ít bổng lộc từ cuộc chiến này, không chỉ vậy mà còn phát sinh các khoản nợ ngập đầu. Tây Ban Nha đạt được một số lợi ích về lãnh thổ nhưng thất bại trong mục tiêu chính là phục hồi Gibraltar.[46] Người Hà Lan bị đánh bại trên mọi phương diện và bị buộc phải nhượng lại lãnh thổ cho Vương quốc Anh. Ở Ấn Độ, cuộc chiến chống lại Mysore và các đồng minh đã kết thúc vào năm 1784 với Hiệp ước Mangalore mà không có bất kỳ thay đổi lãnh thổ nào.