![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/37/Armour_plate_vs_two_pounder_anti-tank.jpg/640px-Armour_plate_vs_two_pounder_anti-tank.jpg&w=640&q=50)
Armour-piercing ammunition
From Wikipedia, the free encyclopedia
Armour-piercing ammunition (AP) hay là đạn xuyên giáp là một loại đạn được thiết kế để xuyên phá vỏ giáp bảo vệ trên thiết giáp hạm, giáp cá nhân, xe thiết giáp.[1]
- Ảnh trên bên trái: Đạn xuyên giáp bị mắc kẹt trong tấm thép
- Ảnh trên bên phải: Mô hình chuyển động của đạn pháo xuyên giáp
- Phía dưới bên trái: Tấm thép dày 110 mm (4,3 in) bị xuyên thủng bởi đạn xuyên giáp 105 mm (4,1 in)
- Dưới phải: Sơ đồ của đạn xuyên giáp:
• 1. – Đầu đạn khí động học hoặc đầu đạn xuyên giáp
• 2. – đầu xuyên Hợp kim thép
• 3. – Lượng nổ mạnh
• 4. – Ngòi nổ được cài đặt nổ chậm sau khi xuyên giáp để nổ bên trong mục tiêu
• 5. – Đuôi đạn
Ứng dụng chủ yếu của đạn xuyên giáp là dùng để xuyên thủng lớp giáp dày của các tàu chiến thiết giáp hạm và gây ra những tổn thất bên trong cho các tàu này. Từ những năm 1920s, vũ khí xuyên giáp được cho là bắt buộc trong chống tăng. Các đạn xuyên giáp có cỡ nhỏ hơn 20 mm được sử dụng để đối phó với các mục tiêu bọc thép hạng nhẹ, giáp cá nhân.
Do giáp xe tăng ngày càng được cải tiến trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, các loại đạn xuyên giáp bắt đầu được thiết kế nhỏ hơn nhưng cường độ và độ cứng để xuyên thép lớn hơn, đồng thời sơ tốc đầu nòng cũng cao hơn. Các thanh xuyên hiện nay cấu tạo từ thanh dài vật liệu có tỉ trọng lớn như tungsten hay uranium nghèo (DU) giúp cải thiện hơn nữa đặc tính của đường đạn.