Thiết giáp hạm
Loại tàu chiến lớn bọc thép dày sử dụng pháo hạm hạng nặng dùng kiểm soát mặt biển, đại diện cho sức mạnh hải quân quốc gia / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thiết giáp hạm (tiếng Anh: battleship)là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại tàu to hơn, được trang bị vũ khí mạnh hơn và có vỏ giáp tốt hơn so với tàu tuần dương và tàu khu trục. Là những tàu chiến vũ trang lớn nhất của hạm đội, thiết giáp hạm thường được sử dụng để chiếm lấy quyền kiểm soát mặt biển và là đại diện cho đỉnh cao sức mạnh hải quân của một quốc gia trong giai đoạn từ thế kỷ XIX cho đến giữa chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên, do sự phát triển vượt bậc của các loại vũ khí tác chiến tầm xa trên biển như máy bay, ngư lôi và nhất là tên lửa có điều khiển sau Thế chiến 2 đã khiến các khẩu pháo siêu lớn của thiết giáp hạm ngày càng trở nên lạc hậu và không còn hữu dụng như trước. Điều này khiến cho thiết giáp hạm mất đi vai trò trong tác chiến hải quân và dần bị thải loại theo thời gian. Đến cuối thế kỷ 20 thì không còn chiếc thiết giáp hạm nào được sử dụng chính thức trong biên chế của các lực lượng hải quân trên toàn thế giới.[Ghi chú 1]
Việc thiết kế thiết giáp hạm được tiến triển qua việc tích hợp và ứng dụng nhiều tiến bộ về kỹ thuật. Tên tiếng Anh battleship được dùng để mô tả một kiểu tàu chiến bọc sắt được cải tiến, mà sau này được gọi là thiết giáp hạm tiền-dreadnought. Đến năm 1906, việc đưa ra hoạt động chiếc HMS Dreadnought báo trước một cuộc cách mạng về thiết kế đến mức những thiết giáp hạm ra đời sau nó được gọi là những "dreadnought".
Thiết giáp hạm từng là biểu trưng của sự thống trị hải quân và là sức mạnh của một quốc gia, và trong nhiều thập niên chúng là những yếu tố quan trọng trong cả chiến lược quân sự lẫn ngoại giao.[1] Cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu trong việc chế tạo thiết giáp hạm vốn đã bắt đầu từ cuối Thế kỷ XIX và càng trầm trọng hơn với sự ra đời của chiếc HMS Dreadnought là một trong những nguyên nhân đưa đến Chiến tranh Thế giới thứ nhất, chứng kiến cuộc đối đầu giữa các hạm đội lớn trong trận Jutland. Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 cùng các thỏa thuận tiếp theo trong những năm 1930 đã thành công trong việc giới hạn số lượng và tải trọng của thiết giáp hạm, nhưng không thể ngăn cản sự tiến triển trong thiết kế. Cả hai phe Đồng Minh và Phe Trục đều đưa ra hoạt động cả những thiết giáp hạm cũ và mới trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Giá trị của những chiếc thiết giáp hạm từng bị nghi ngờ, ngay cả vào thời kỳ thịnh hành của chúng.[2] Trận Tsushima (1905) là cuộc đối đầu quyết định duy nhất giữa hai hạm đội tàu chiến bọc thép. Ngoại trừ trận Jutland (1916) không có tính quyết định thì có ít những cuộc đối đầu trực tiếp giữa các thiết giáp hạm sau đó. Cho dù có pháo lớn và vỏ giáp dày nhưng thiết giáp hạm ngày càng trở nên mong manh trước các đợt tấn công của các loại vũ khí, khí tài có kích thước nhỏ và chi phí chế tạo, vận hành rẻ tiền hơn rất nhiều lần, thoạt đầu là tàu ngầm được trang bị ngư lôi và thủy lôi, rồi sau đó là đến máy bay và tên lửa có điều khiển.[3] Nhược điểm chính của thiết giáp hạm là cự ly tấn công bị giới hạn ở mức dưới 40 km (là tầm bắn của hải pháo trên tàu), cự ly này đã bị vượt qua bởi máy bay và tên lửa. Kết quả là các tàu sân bay được trang bị máy bay có cự ly tấn công hàng trăm km, ngoài tầm bắn của những khẩu siêu pháo trên các thiết giáp hạm đã thay thế cho loại tàu này ở vai trò tàu chiến chủ lực từ nửa sau Thế Chiến 2 trở đi. Chiếc thiết giáp hạm cuối cùng được người Anh hạ thủy vào năm 1945 là HMS Vanguard. Những chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa được Hải quân Hoa Kỳ giữ lại sử dụng trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh chỉ với vai trò hỗ trợ hỏa lực mặt đất; và những chiếc thiết giáp hạm này cuối cùng được rút toàn bộ khỏi Đăng bạ Hải quân vào tháng 3 năm 2006.[4]