Đế quốc La Mã
giai đoạn nối tiếp chế độ cộng hòa của La Mã cổ đại / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đế quốc La Mã hay Đế quốc Rôma (tiếng Latinh: Imperium Romanum [ɪmˈpɛri.ũː roːˈmaːnũː]; tiếng Hy Lạp: Βασιλεία τῶν Ῥωμαίων Basileía tôn Rhōmaíōn) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ gọi là hoàng đế La Mã, thống lĩnh các vùng đất rộng lớn bao quanh Địa Trung Hải ở châu Âu, Bắc Phi, và Tây Á. Kể từ khi Caesar Augustus đăng cơ cho tới thời kỳ loạn lạc vào thế kỷ thứ 3, La Mã theo chế độ Nguyên thủ một hoàng đế, đóng đô ở Rôma, lấy Italia làm đất mẫu với nhiều tỉnh phụ thuộc. La Mã về sau được cai trị bởi nhiều hoàng đế, san sẻ quyền lực để kiểm soát hiệu quả hơn cực đông và cực tây Đế quốc. Thành Rôma vẫn là kinh đô trên danh nghĩa của cả hai nửa cho tới năm 476, thời điểm mà phù hiệu đế chế được gửi tới Constantinopolis sau khi Ravenna rơi vào tay các tộc rợ Giécmanh. Việc thụ nhận đạo Kitô như là quốc giáo của La Mã vào năm 380 và sự thất thủ của Tây La Mã trước các cuộc xâm lấn của các vương quốc Giécmanh được lấy làm mốc đánh dấu cho sự chấm dứt của thời kỳ cổ đại Hy-La và sự khởi đầu của thời kỳ Trung cổ ở phương Tây. Cũng do những sự kiện ấy, cộng với quá trình Hy Lạp hóa dần dần các tỉnh phía đông, giới sử học đã đặt tên riêng cho nhà nước La Mã kế tục còn sót lại ở phía đông là Đế quốc Byzantine.
Đế quốc La Mã
Nguyên lão viện và Nhân dân La Mã |
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
27 TCN – 395 (thống nhất)[2] 395-476/480 (Tây) 395–1453 (Đông) | |||||||||||
Cương vực cực thịnh của Đế quốc La Mã vào năm 117, thời điểm Traianus băng hà (các nước chư hầu được tô màu hồng)[3][lower-alpha 3] | |||||||||||
Quá trình thay đổi lãnh thổ của Đế quốc La Mã từ thời thị quốc Rôma cho tới thời Tây La Mã lụi tàn | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||||
Thủ đô |
| ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | |||||||||||
Tôn giáo chính |
| ||||||||||
Tên dân cư | Người La Mã | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Cộng hòa De Jure, Bán-tuyển cử quân chủ chuyên chế De Facto | ||||||||||
Hoàng đế | |||||||||||
• 27 TCN – 14 | Augustus (đầu tiên) | ||||||||||
• 98–117 | Traianus | ||||||||||
• 138–161 | Antoninus Pius | ||||||||||
• 270–275 | Aurelianus | ||||||||||
• 284–305 | Diocletianus | ||||||||||
• 306–337 | Constantinus I | ||||||||||
• 379–395 | Theodosius I[lower-alpha 5] | ||||||||||
• 474–480 | Julius Nepos[lower-alpha 6] | ||||||||||
• 475–476 | Romulus Augustus | ||||||||||
• 527–565 | Justinian I | ||||||||||
• 610–641 | Heraclius | ||||||||||
• 780–797 | Constantinus VI[lower-alpha 7] | ||||||||||
• 976–1025 | Basil II | ||||||||||
• 1143–1180 | Manuel I | ||||||||||
• 1449–1453 | Constantinus XI[lower-alpha 8] | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Thời Cổ điển tới Hậu kỳ Trung Cổ | ||||||||||
32–30 TCN | |||||||||||
• Thành lập Đế quốc | 30–2 TCN | ||||||||||
16 tháng 1 năm 27 TCN | |||||||||||
• Thiên đô về Constantinopolis | 11 tháng 5 năm 330 | ||||||||||
• Đông-Tây chia cắt vĩnh viễn | 17 tháng 1 năm 395 | ||||||||||
• Romulus Augustus bị phế truất | 4 tháng 9 năm 476 | ||||||||||
• Julius Nepos bị sát hại | 9 tháng 5 năm 480 | ||||||||||
12 tháng 4 năm 1204 | |||||||||||
• Constantinopolis được tái chiếm | 25 tháng 7 năm 1261 | ||||||||||
29 tháng 5 năm 1453 | |||||||||||
• Trebizond sụp đổ | 15 tháng 8 năm 1461 | ||||||||||
Địa lý | |||||||||||
Diện tích | |||||||||||
• 25 TCN[6] | 2.750.000 km2 (1.061.781 mi2) | ||||||||||
5.000.000 km2 (1.930.511 mi2) | |||||||||||
• 390[6] | 3.400.000 km2 (1.312.747 mi2) | ||||||||||
Dân số | |||||||||||
• 25 TCN[8] | 56.800.000 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | sestertius[lower-alpha 9], aureus, solidus, nomisma | ||||||||||
| |||||||||||
Nhà nước tiền thân của Đế quốc La Mã, tức Cộng hòa La Mã, trở nên cực kỳ bất ổn sau các xung đột nội bộ triền miên, không có hồi kết. Giữa thể kỷ thứ nhất TCN, Julius Caesar được bổ nhiệm làm dictator perpetuo ("độc tài vĩnh viễn"), sau bị mưu sát vào năm 44 TCN bởi nhiều kẻ bất mãn với chế độ do Caesar bày ra. Các cuộc nội chiến và xung đột tiếp diễn, rốt cuộc dẫn đến chiến thắng của Octavian trước Mark Antony và Cleopatra tại trận Actium vào năm 31 TCN. Ngay năm sau, Octavian chinh phục Vương quốc Ptolemaios ở Hy Lạp, chấm dứt thời kỳ Hy Lạp hóa vốn bắt nguồn từ những cuộc thảo phạt của Alexandros vào khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Thế lực của Octavian trở nên quá đỗi lớn mạnh, khiến viện nguyên lão đành ban cho ông quyền lực tuyệt đối kèm danh hiệu mới là Augustus, bản chất là đã biến ông thành vị hoàng đế đầu tiên của La Mã. Lãnh thổ rộng lớn của La Mã đời Augustus được phân chia thành các tỉnh nguyên lão và các tỉnh đế chế, với Italia vẫn là trung tâm hành chính của toàn thể đế quốc.
Hai thế kỷ đầu của Đế quốc La Mã chứng kiến một sự thịnh vượng và ổn định chưa từng có tiền lệ, thường được gọi là thời kỳ Pax Romana (n.đ. 'Thái bình La Mã'). Lãnh thổ La Mã đạt cực thịnh dưới đời Traianus (98–117); tuy nhiên không lâu sau, dấu hiệu của một giai đoạn rối ren đã nhen nhóm từ đời Commodus (177–192). Vào thế kỷ thứ 3 CN, La Mã lâm vào một cuộc khủng hoảng mang tính quyết định sự tồn vong của chính nó, khi các lãnh thổ như Gallia và Palmyra lần lượt tuyên bố độc lập và ly khai khỏi Đế quốc. Đồng thời, hàng loạt các hoàng đế tự xưng, hầu hết xuất thân từ nhà binh, thay phiên nhau lãnh đạo Đế quốc. Để bình định xã tắc, Diocletianus đã cho lập hai triều đình riêng biệt ở Đông phần Hy Lạp và ở Tây phần La Mã vào năm 286; đạo Kitô trở nên lớn mạnh nhờ việc ban hành Chỉ dụ Milan vào năm 313. Ít lâu sau, Giai đoạn Di cư diễn ra, bao gồm các cuộc xâm lăng của người Giécmanh và các toán quân Hung của Attila, quá trình mà đã khiến Đế quốc Tây La Mã bị suy yếu trầm trọng. Sau sự kiện thành Ravenna rơi vào tay tộc rợ Heruli và Romulus Augustus bị phế truất bởi Odoacer vào năm 476, Đế quốc Tây La Mã rốt cuộc bị tiêu diệt; hoàng đế Đông La Mã Zeno tuyên bố bãi bỏ nhà nước phía Tây vào năm 480. Tuy vậy, Đế quốc Đông La Mã vẫn bền bỉ sống sót trong vòng 1 thiên niên kỷ tiếp, cho tới sự kiện quân Turk Ottoman của Mehmed II hạ thành Constantinople vào năm 1453.[lower-alpha 10]
Do phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và sự tồn tại lâu dài của Đế quốc La Mã, thể chế và văn hóa của La Mã cổ đại đã có tầm ảnh hưởng sâu sắc và dai dẳng đối với sự phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, triết học, pháp luật, và các hình thức chính phủ của các vùng lãnh thổ từng nằm dưới sự cai trị của nó. Tiếng Latinh của người La Mã đã phát sinh các ngôn ngữ Rôman về sau, trong khi tiếng Hy Lạp trung đại đã được Đông La Mã công nhận là ngôn ngữ chính thức của họ. Sự thụ nhận Kitô giáo của Đế quốc La Mã đã dẫn đến sự hình thành các vương quốc Kitô Trung cổ. Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại đã truyền cảm hứng bất tận cho thời kỳ Phục hưng Ý. Truyền thống kiến trúc của Roma đóng vai trò nền tảng cho các dòng kiến trúc như Romanesque, Phục hưng, Tân cổ điển, cũng như kiểu Hồi giáo. Sự mặc khải nền khoa học và kỹ thuật thời Hy-La (cũng là nền tảng cho khoa học Hồi giáo) ở Châu Âu thời Trung cổ đã dẫn đến khoa học Phục hưng và Cách mạng khoa học. Về mặt pháp quyền, bộ luật La Mã đã được kế thừa và phát huy bởi rất nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, chẳng hạn bộ luật Napoléon của Pháp. Ngoài ra, thể chế cộng hòa của Roma đã để lại một di sản sâu đậm, ảnh hưởng đến các nước cộng hòa thành bang ở Ý Trung cổ, cũng như nhà nước Hoa Kỳ ban đầu lập quốc và các nước cộng hòa dân chủ hiện đại.