Remove ads
From Wikipedia, the free encyclopedia
Thơ Việt Nam là cách gọi chung những thi phẩm do người Việt Nam sáng tác.
Văn phong và cách dùng từ trong bài hoặc đoạn này không bách khoa. |
Văn học dân gian Thần thoại |
Văn học viết Văn học đời Tiền Lê |
Khác Thơ Việt Nam |
Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca. Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán-Việt. Trong Văn học dân gian, tập II[2], Đinh Gia Khánh có chú thích;
Sách Mao truyện viết:
Trước đây người ta còn gọi ca dao là phong dao vì có những bài ca dao phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời đại. Ca dao có những câu bốn chữ, năm chữ, sáu tám hay bảy sáu tám, đều có thể "ngâm được nguyên câu", không cần tiếng đệm như người ta ngâm thơ vậy. Chẳng hạn hai câu sáu tám:
Hay:
Ca dao Việt Nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của con người. Tình yêu của người lao động biểu hiện trong ca dao về nhiều mặt: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất được, yêu lao động, yêu thiên nhiên. Ca dao còn là một biểu hiện tư tưởng đấu tranh trong cuộc sống xã hội, trong khi tiếp xúc với thiên nhiên. Chính vì thế, ca dao còn phản ánh đời sống tình cảm, đời sống vật chất của con người, ý thức lao động sản xuất v.v. trong tình hình xã hội, kinh tế, chính trị dưới thời đại lịch sử sinh sống. Chẳng hạn sự kiềm chế của tứ đức, tam tòng trong giới phụ nữ bật lên những câu than:
Do số phận họ phần lớn là do người khác định đoạt mà không có quyền tự chủ, sự chua xót vắt nước thành những câu vừa hài hước vừa đau xót:
Tình yêu nam nữ ở nông thôn là một thứ tình yêu liên quan đến ruộng đồng, đến xóm làng. Những câu như tự nhắc mình, hoặc nhắc người mình yêu:
Cuộc sống nặng nhọc, con trâu đi trước, cái cày đi sau cũng phản ánh trong ca dao:
Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, giản dị và tươi tắn. Chúng giản dị như lời nói thường, nhẹ nhàng, gọn gàng, song không kém phần chải chuốt, đầy tính miêu tả những tình cảm sâu sắc. Một cảnh buồn:
Hay nỗi nhớ bịn rin:
Một cô gái, trong chế độ tảo hôn, chưa vấn tóc gọn đã về nhà chồng, anh chồng dửng dưng coi vợ như một đứa trẻ. Nhưng khi cô ta vừa đến tuổi, thì tình hình khác hẳn:
Ca dao còn được dùng như một hình thức truyền kinh nghiệm dễ nhớ, chẳng hạn kinh nghiệm nấu ăn:
Phú có nghĩa là trình bày, diễn tả, chẳng hạn như nói về người, về việc hay vật gì thì trình bày, diễn tả cho người ta hình dung được người, việc, hay vật ấy. Chẳng hạn:
Hay chống đối với dâm ô, giã man của giai cấp phong kiến thống trị:
Tỉ là so sánh. Ở thể này, câu ca không nói thẳng như ở thể Phú, mà lại mượn cái khác để so sánh, ngụ ý hay gửi gắm một tâm sự. Chẳng hạn:
Hay:
Hoặc:
Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn, thấy ngoại cảnh mà có hứng, muốn nói lên nỗi lòng mình, cảnh tình riêng của mình:
Hay:
Theo Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Can Mộng[3], người viết cuốn Ngạn ngữ phong dao, đã từng viết:
Lịch sử sưu tập và biên soạn tục ngữ, ca dao, và dân ca chỉ mới được bắt đầu từ khoảng hai trăm năm trở lại đây. Hiện tại, bài thơ lục bát cổ xưa nhất có niên đại rõ ràng còn lưu giữ lại đến nay là "Cảm tác" của Nguyễn Hy Quang được sáng tác năm 1674[4]. Vào nửa cuối thế kỷ 18, Trần Danh Án (hiệu Liễu Am) đã sưu tập và biên soạn Quốc phong giải trào và Nam phong nữ ngạn thi. Các soạn giả trên đã ghi chép tục ngữ, ca dao bằng chữ nôm, rồi dịch ra chữ Hán và chú thích, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với thơ Quốc Phong trong Kinh thi của Trung Quốc.
Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta thấy xuất hiện những sách chữ nôm sưu tập tục ngữ, ca dao[5]. Sang đầu thế kỷ 20, Việt Nam mới có những sách sưu tập những di sản này bằng chữ quốc ngữ[6].
Như vậy có thể nói, lục bát bắt nguồn từ trong tục ngữ và ca dao mà ra.
Như trên đã nói, "lục" (sáu), "bát" (tám), hay còn gọi là thể thơ sáu tám (6, 8) ám chỉ đến độ dài của hai câu thơ: một câu gồm 6 chữ và một câu gồm 8 chữ. Câu sáu chữ đi trước và câu tám chữ theo sau. Vần rơi vào những chữ in đậm. Chẳng hạn trong truyện Kiều, lúc Sở Khanh rủ Kiều chạy trốn khỏi lầu xanh của mụ Tú Bà:
Thơ lục bát thường là nguồn cảm hứng thơ đầu tiên, gây ảnh hưởng nhiều cho những nhà thơ Việt Nam từ những ngày còn bé. Có thể qua những lời ru bằng ca dao, bằng các câu ca cửa miệng người lớn dùng. Chẳng hạn:
Do nhạc tính mềm mại của lục bát, loại thơ này còn thấy được dùng trong các bài thơ như một phần chuyển giọng, từ gồ ghề sang mượt mà, êm ái như trong trạng thái than thở hay ca ngợi. Chẳng hạn trong bài thơ Tiếng Hát Sông Hương của Tố Hữu:
Hay Trần Đăng Khoa trong trường ca[10] Khúc hát người anh hùng
Biến thể trong thơ lục bát là những câu thơ bị đổi cách gieo vần. Ví dụ như:
Qua cầu ngả nón trông cầu Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.
Hoặc như:
Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Kết quả của lịch sử giao tiếp văn hóa phương bắc, đặc biệt là thời cực thịnh của thơ Trung Quốc là thể thơ phát triển thời nhà Đường, thơ Đường đã thâm nhập vào văn hóa Việt thành thơ Đường Việt Nam. Đầu tiên, thơ Đường Việt Nam được viết bằng chữ Hán, rồi dần được viết bằng chữ Hán Nôm và chữ thuần Việt.
Có lẽ bắt đầu từ bài thơ dịch của Nguyễn Văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi trên Trung Bắc Tân văn (1928) mà nguồn thơ mới khởi thảo:
Lối thơ không niêm, không luật, không hạn chế số chữ trong câu, không hạn chế số câu lại có vẻ thích ứng với đông đảo quần chúng hơn.[11]
Lối thơ này đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Phục Hưng, như trong các tác phẩm của William Shakespeare. Chẳng hạn trong bi kịch Hamlet, khi chàng gọi mẹ mình vào, mời bà ngồi (Những câu tiếng Việt chỉ là phần dịch tạm thời):
Queen.
Ham.
Queen.
Ham.
Có quan điểm cho rằng thơ tự do đặt tầm quan trọng về cách đọc thơ, hay sự bố trí theo chiều dọc của tờ giấy hơn, và nhịp điệu của thị giác mới là phần quan trọng. Chẳng hạn:
Chữ tự do ở đây có thể hiểu là sự thoát khỏi sự gò bó khắt ke của các luật thơ. Nhà thơ muốn chạy theo cảm hứng, theo tình cảm, lấy chữ để diễn tả nội tâm thay vì để cho con chữ, để cho những luật lệ kìm kẹp mà phải đổi chữ, đổi ý, biến bài thơ thành quái thai của tình cảm của họ. Phan Khôi viết trong Phụ nữ Tân Văn - số 132:
Chẳng hạn như bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về:
Rồi sau này Hữu Thỉnh Lưu trữ 2012-03-02 tại Wayback Machine trong bài Thơ viết ở biển Lưu trữ 2012-03-02 tại Wayback Machine:
Như vậy có thể nói, thơ tự do thiên về tính nhạc, tính hình tượng, đặt nặng nội dung tình cảm cần truyền đạt hơn là hình thức, thể loại. Thơ tự do là thơ được thoát thân, thả cánh bay cao như thể bay cao được, trải rộng như có thể bao trùm không hạn chế, không gò bó. Với thơ tự do, có thể nói rằng: nếu bạn yêu thơ, có khả năng viết câu, dùng từ thì đều có thể làm thơ được.
Lẩy thơ thường được người ta biết đến qua lẩy Kiều, là một cách chơi thơ phổ biến trong dân gian
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.