From Wikipedia, the free encyclopedia
Thành Tân Sở hay Sơn phòng Tân Sở là tên một tòa thành cổ của nhà Nguyễn; nay thuộc địa phận làng Đốc Kỉnh, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam.
Sau cuộc phản công của phe chủ chiến ở Kinh thành Huế thất bại, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi phải chạy ra thành Tân Sở, và đến ngày 13 cùng tháng, ngài bèn ban bố dụ Cần Vương lần đầu ở tại đây, làm dấy lên một phong trào kháng Pháp rộng khắp. Song chỉ mấy ngày sau, tướng De Courcy sai quân đến bao vây biển Nhật Lệ và đánh chiếm tỉnh thành Quảng Trị, buộc tướng Tôn Thất Thuyết phải phò vua rời Tân Sở...[1]. Liền khi ấy, quân Pháp tràn cướp phá và san bằng Sơn phòng này.
Trên quốc lộ 9 từ Đông Hà đi Lao Bảo, chỗ cây số 12 rẽ theo đường vào Cùa chừng 7 km sẽ gặp một bình nguyên đất đỏ bazan, được bao bọc bốn phía bởi các dãy núi trùng điệp, đó là vùng đất mà thành Tân Sở khi xưa đã tọa lạc.
Năm 1873, quân Pháp đánh ra Hà Nội lần thứ nhất, buộc nhà Nguyễn phải ký Hòa ước Giáp Tuất (1874), thì ngay sau đó triều thần đã đề nghị lên vua Tự Đức xin khẩn trương xây dựng các Sơn phòng tại tất cả các tỉnh miền Trung, và được chấp thuận[2]. Trong đó đáng chú ý là Nha Kinh lý Sơn phòng Quảng Trị, tiền thân của thành Tân Sở [3].
Tuy nhiên, việc xây dựng Sơn phòng được tiến hành khẩn trương vào cuối năm 1883, dưới triều vua Kiến Phúc. Khi ấy, triều đình ban lệnh cho các phạm nhân đã phân loại đến khai khẩn ở Sơn phòng Quảng Trị[4], cho "dời nha Sơn phòng Quảng Trị tới làng Bảng Sơn[5], lỵ sở phủ Cam Lộ cũng xin dời về trong Sơn phòng" [6], đồng thời giao cho Phụ chính Nguyễn Văn Tường trực tiếp đứng ra đôn đốc binh sĩ, tù nhân và dân phu trong quá trình xây dựng thành Tân Sở, bởi Cơ mật viện cho là "Sơn phòng Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô (Huế)" [7].
Qua cuộc khảo cứu thực địa vào năm 1941, tác giả A.Delvaux công bố rằng thành Tân Sở có diện tích gần 23 ha, gồm hai vòng thành đều hình chữ nhật. Vòng thành ngoài có chiều dài 548 m, rộng 418 m; xung quanh trồng tre, có 4 cửa (Tả, Hữu, Tiền, Hậu) ở chính giữa bốn mặt thành. Thành nội dài 165 m, rộng 100 m (diện tích 16,5 ha), cũng có bốn cửa, bên trong có mấy nếp nhà dùng làm nhà ở của các quan, có chợ, trại lính, kho đạn, hầm súng, tàu voi, trại giam, giếng nước, v.v"...[8].
Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại vài công bố khác nhau về quy mô và quy cách thành Tân Sở, đáng chú ý có tài liệu của Linh mục H. De Pirey công bố năm 1914. Theo ông thì "tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 780 m, gồm ba vòng thành: Vòng thành ngoài là một hệ thống cọc cao chừng 4 mét, đóng sâu xuống đất. Vòng thành kế tiếp mỗi cạnh 420 m, cao 2 m, được đắp bằng đất, bao bọc thành nội ở bên trong"...[9].
Giải thích sự khác nhau này, PGS. TS Sử học Đỗ Bang, viết:
Để xây dựng thành Tân Sở, triều đình đã huy động "hàng ngàn binh lính, tù phạm và dân phu ngày đêm đào hào, xây thành, đắp lũy. Vật liệu tại chỗ chủ yếu là gỗ, tre, mây...còn phần lớn được vận chuyển từ Huế ra để xây dựng, trong đó có gạch với kích thước lớn, khối lượng lớn để xây Thành Nội và một số kiến trúc ở bên trong Thành Nội. Đồng thời, phải khẩn hoang để tự chủ lương thực, dự trữ muối để phòng lúc bị vây, khai quặng sắt để rèn đúc công cụ và vũ khí. Ngoài ra, còn phải đưa vàng bạc, vũ khí từ Huế ra trước để dự phòng, mở đường thượng đạo để thông với kinh đô Huế và Quảng Bình"...[11].
Nhà sử học Phạm Văn Sơn cho biết thêm chi tiết: "Trong hai năm, Tôn Thất Thuyết đã cho huy động tới 2.000 dân phu vào việc đào hầm, đắp lũy; và ba tháng trước ngày đánh úp Pháp ở Huế, ông đã bí mật cho các vật liệu, súng ống, thóc gạo, châu báu, bạc tiền đi Tân Sở. Khi Lemaire còn làm Tổng trú sứ ở Huế, nghe phong phanh Nam triều chở vũ khí và tiền bạc đi Tân Sở, ông có đến hỏi Phụ chính Nguyễn Văn Tường, nhưng ông Tường cố chối cãi. Sau, ông Tường thú nhận với Đặc phái viên De Champeaux rằng, từ đầu tháng 6 năm 1885, chỉ tính riêng số bạc nén cho đưa ra thành Tân Sở đã là 300.000 lượng!"...[12].
Picad Destelan trong sách An Nam và Bắc Kỳ (xuất bản tại Paris, 1892) cũng cho biết rằng: "Đã ba tháng nay (tức trong năm 1883), một ngàn đến mười lăm ngàn người làm việc trong thành Cam Lộ, không những xây để phòng thủ, mà còn là nơi để thành Hoàng cung, (và) sẽ là Kinh đô thứ hai" [13].
Một số tác giả cho rằng vua Hàm Nghi lên Tân Sở vào ngày 10 tháng 7 năm 1885 [14], rồi ba ngày sau nhà vua ban Dụ Cần Vương. Lần thứ hai là khi trên đường ra Quảng Bình bằng đường hạ bạn ở đồng bằng thì nghe tin quân Pháp đón bắt ở Đồng Hới, Tôn Thất Thuyết phải đưa nhà vua về lại Tân Sở, rồi theo con đường thượng đạo để ra Bắc. Liền khi ấy, quân Pháp tràn cướp phá và san bằng Sơn phòng này.
Lý giải vì sao thành Tân Sở nằm ở địa thế hiểm trở, có núi non trùng điệp, có đường xuyên thông sang Lào và ra Bắc Kỳ, lại có những kho thóc cất giữ kín đáo...[15] nhưng không thể ở được dài lâu, nhà sử học Phạm Văn Sơn viết:
GS. Trần Văn Giàu có những nhận xét tương tự:
Song theo quan điểm của Đỗ Bang, thì:
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày vua Hàm Nghi ban dụ Cần Vương tại Tân Sở (13 tháng 7 năm 1885 – 13 tháng 7 năm 2010), ngày 13 tháng 7 năm 2010, tại huyện Cam Lộ (Quảng Trị) đã diễn ra cuộc hội thảo khoa học "Thành Tân Sở với phong trào Cần Vương" do UBND tỉnh Quảng Trị và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức.
Trong cuộc hội thảo, các nhà nghiên cứu tỏ sự bức xúc và thái độ không hài lòng trước việc thành Tân Sở dù đã được công nhận xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1995, nhưng cho đến hôm nay, di tích này đã thực sự trở thành một phế tích, vì "chẳng còn lại gì ngoài những vườn cây cao su và những bãi đất trống" [19].
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.