From Wikipedia, the free encyclopedia
Phạm Văn Nghị (chữ Hán: 范文誼, 1805-1884)[1] hiệu Nghĩa Trai; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà Nguyễn theo đường lối kháng Pháp ở thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Phạm Văn Nghị là người ở xã Tam Đăng, tổng An Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Là con của một ông đồ nghèo, nhưng nhờ chăm chỉ học, nên ông lần lượt đỗ: Tú tài (1826), cử nhân (1837) và Hoàng giáp (1838, lúc 33 tuổi), nên được người đời gọi là Hoàng Tam Đăng.
Sau khi đỗ đạt cao, ông được bổ làm Tu soạn viện Hàn lâm, rồi làm Tri phủ Lý Nhân. Ở đấy, hễ dân có việc tranh tụng, thì ông thường lấy điều nhân nghĩa để khuyên bảo; vậy mà, có lúc ông bị giáng đến ba cấp [2], sau lại được trở về Biên tu ở Quốc sử quán.
Năm 1845, ông cáo bệnh từ quan về nhà mở trường dạy học. Ở gần cửa biển Đại An, thấy đất gần cửa biển bỏ hoang, ông bèn chiêu tập người cùng làng đến khai khẩn, lập ấp, đặt tên mới là trại Sĩ Lâm (sau thành tổng Sĩ Lâm, nay là ba xã: Nghĩa Lâm, Nghĩa Hùng, Nghĩa Hải, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định).
Năm Tự Đức thứ 11 (1858), ông lại được triều đình triệu ra giữ chức Đốc học Nam Định.
Tháng Bảy (âm lịch) năm Tự Đức thứ 11 (Mậu Ngọ, 1858), tàu chiến Pháp nổ súng đánh phá Sơn Trà (Đà Nẵng), dù đang có bệnh, ông vẫn quyết định tạm giao công việc cho bạn đồng khoa là Tiến sĩ Doãn Khuê, dâng lên vua "Trà Sơn kháng sớ" (Sớ kháng nghị việc Sơn Trà), rồi cùng với học trò và một số sĩ phu yêu nước ở Nam Định, lập ngay một đội quân nghĩa dũng gồm 365 người rồi xin vua cho vào Đà Nẵng đánh quân Pháp.
Nhưng khi đội quân nghĩa dũng tới Huế, thì quân Pháp đã rút khỏi nơi đó để vào đánh Gia Định. Vua Tự Đức không chuẩn y sớ của ông xin tiếp tục được vào Nam đánh đuổi ngoại xâm, mà chỉ ban lời khen ngợi, nên ông đành phải quay về [3]. Tuy vậy, nghĩa cử này đã làm rúng động cả sĩ phu Nam Bắc[4]
Về tới đất Bắc, ông tiếp tục làm chức vụ cũ. Khi ấy, có nhóm thổ phỉ người Trung Quốc tràn sang quấy nhiễu ở vùng Đông Bắc, ông đem ngay số nghĩa dũng vừa chiêu mộ được, đến đóng đồn phòng giữ khi yên mới thôi. Triều đình thăng ông làm Hàn Lâm viện Thị giảng Học sĩ, nhưng vì bệnh nên ông lại xin nghỉ.
Năm 1866, ông được sung chức Thương biện, đóng quân ở Hà Cát để trông coi vùng biển. Năm Tự Đức thứ 26 (1873), triều đình thăng ông làm Thị độc Học sĩ, ban cho thẻ bài bằng vàng.
Mùa đông năm ấy, Pháp đem quân đánh chiếm Hà Nội, rồi đánh luôn Nam Định. Bấy giờ tuy đã 68 tuổi, Phạm Văn Nghị vẫn tổ chức dân binh chặn đánh quân Pháp ở ngã ba Độc Bộ. Do quân ít, chống không nổi, ông cho rút nghĩa quân về lập căn cứ ở Yên Hàn (Ý Yên, Nam Định).
Hiệp ước Giáp Tuất được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874, trong đó có điều khoản triều đình Huế phải giao đứt toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp. Biết được tin này, Phạm Văn Nghị buồn bực, viện cớ tuổi cao, xin về dưỡng lão, mặc dù ông vừa được sung làm Thương biện Nam Định.
Sau triều đình truy xét lại việc để thành Nam Định bị thất thủ, ông bị tước đoạt hết mọi chức tước, bổng lộc. Về ở ẩn, ông sống đạm bạc, nơi động Hoa Lư, Ninh Bình, lấy hiệu là "Liên Hoa Động chủ".
Năm 1884, ông mất vì già yếu, được vua Tự Đức chuẩn cho khai phục nguyên chức hàm cũ là Thị độc Học sĩ.
Sử nhà Nguyễn chép:
“ |
"Phạm Văn Nghị cùng với Doãn Khuê (đỗ tiến sĩ cùng khoa với Nghị), được kẻ sĩ đương thời mến phục. Có lần Doãn vào bái yết vua, vua thong thả hỏi chuyện bệnh tình của Nghị rồi cho vàng và tiền để mua thuốc men, lại dụ rằng: "Không phải ta khen Nghị về sự tiến thoái nhanh nhẹn, mà là khen về sự khí tiết hơn người, gặp việc là hăng hái làm..." Tuy ở ẩn, nhưng ông Nghị luôn tự trách mình chưa làm hết chức trách với nước, với dân. Có người biết được tấm lòng ông, tâu chuyện lên vua. Vua ban cho ông 100 lạng bạc và dụ rằng: "An cư, dưỡng lão, dạy bảo hiền tài, thế cũng đã là lo báo đáp, không nên tự cho như thế là chưa đủ" |
” |
— Đại Nam chính biên liệt truyện, tập 2, quyển 33 |
Năm ông 70 tuổi, nhiều người có liễn đối, thơ mừng thọ, trong số đó có câu của Tống Duy Tân:
Phạm Văn Nghị viết nhiều và chủ yếu đều bằng chữ Hán. Tác phẩm gồm có:
Và bài "Trừ văn hịch" (Hịch trừ muỗi).
Về chữ Nôm, ông có bài "Tứ thành thất thủ phú" (Phú kể lại việc Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất) và một số bài thơ khác ông làm khi về ở ẩn.
Thơ văn yêu nước của ông biểu lộ thái độ căm thù quân xâm lược sâu sắc, đả kích không thương tiếc những quan lại yếu hèn. Nhưng cũng qua đó, người đọc cũng dễ dàng thấy ở ông một tấm lòng yêu dân thiết tha, lòng kính trọng những anh hùng liệt sĩ đã dám xả thân vì nghĩa lớn.
Về cuối đời, "thơ ông nặng về tư tưởng nhàn, song tấm lòng son sắt với dân, với nước thì không hề phai nhạt"...[5]
Nhờ công ông dạy dỗ, nhiều học trò của ông sau này đều đỗ đạt cao, trở thành người hữu ích như: Nguyễn Khuyến, Trần Bích San, Nguyễn Quang Bích, Đỗ Huy Liêu, Phạm Thận Duật, Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Nguyễn Cao, Lã Xuân Oai, Vũ Hữu Lợi, Phạm Nhân Lý, Trần Văn Gia, Trần Đình Liêm,..
Phần các con ông, có: con trưởng là Phạm Văn Giảng, thi Hội đỗ Phó bảng, làm quan đến chức Bố chánh Thanh Hóa; các con thứ là Phạm Văn Hân, Phạm Văn Hàm, Phạm Văn Phả đều thi đậu cử nhân.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.