Giải đua xe Công thức 1 lần thứ 64 From Wikipedia, the free encyclopedia
Giải đua xe Công thức 1 2013 là mùa giải thứ 64 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải này bao gồm 19 chặng đua từ tháng 3 cho đến tháng 11.
2013 cũng là năm cuối cùng khi động cơ V8 2,4 l được giới thiệu vào năm 2006 được sử dụng[1].
Sebastian Vettel đã bảo vệ thành công chức vô địch của mình và đồng thời giành chức vô địch thứ tư liên tiếp tại giải đua ô tô Công thức 1 Ấn Độ 2013, chặng đua thứ 15 của mùa giải. Anh trở thành tay đua thứ ba trong lịch sử Công thức 1 giành được bốn chức vô địch hạng mục tay đua liên tiếp. Ngoài ra, anh trở thành tay đua thứ tư vô địch ít nhất bốn lần cùng với Alain Prost, Juan Manuel Fangio và Michael Schumacher. Đó là một trong những chức vô địch với thành tích thống trị nhất trong lịch sử Công thức 1 và là chức vô địch cuối cùng mà một tay đua của Red Bull Racing giành được cho đến năm 2021 khi Max Verstappen giành được chức vô địch hạng mục tay đua đầu tiên của mình tại giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2021. Đồng thời, đó cũng là chức vô địch cuối cùng dành cho một tay đua tham gia với một đội đua sử dụng động cơ Renault cho đến năm 2022. Vettel giành chức vô địch với khoảng cách kỷ lục 155 điểm và màn trình diễn ấn tượng đó giúp anh giành được Giải thưởng Thể thao Thế giới Laureus với tư cách là Vận động viên nam của năm. Anh cũng chính là tay đua Công thức 1 thứ hai giành được giải này[2].
Vettel đã phá kỷ lục 13 lần giành chiến thắng trong một mùa giải của Schumacher và kết thúc mùa giải với chín chiến thắng liên tiếp[3]. Fernando Alonso đứng thứ nhì trong bảng xếp hạng các tay đua cho Ferrari lần thứ ba sau bốn mùa giải và đây cũng là lần cuối cùng anh giành chiến thắng trong một cuộc đua hoặc lên bục trao giải cho đến giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2021. Đội của Vettel, Red Bull Racing, với sự hỗ trợ của đồng đội Mark Webber, đã bảo vệ thành công chức vô địch hạng mục đội đua và Red Bull Racing giành được chức vô địch lần thứ tư trong lịch sử đội.
Bảng này liệt kê tất cả các tay đua có hợp đồng với đội đua với tư cách là tay đua chính hoặc tay đua dự bị/lái thử cho mùa giải 2013 hoặc những tay đua đã tham gia các cuộc lái thử chính thức. Các đội đua sau đây được sắp xếp theo thứ tự của bảng xếp hạng các đội đua vào năm 2012.
Đội đua | Xe đua | Động cơ | Số xe | Tay đua | Số chặng đua đã tham gia |
Tay đua lái thử/ dự bị |
---|---|---|---|---|---|---|
Infiniti Red Bull Racing | Red Bull RB9 | Renault RS27-2013 | 1 | Sebastian Vettel[4] | Tất cả | Sébastien Buemi |
2 | Mark Webber[5] | Tất cả | ||||
Scuderia Ferrari | Ferrari F138 | Ferrari Type 056 | 3 | Fernando Alonso[6] | Tất cả | Andrea Bertolini
Davide Rigon[# 1] Pedro de la Rosa[# 2] |
4 | Felipe Massa[7] | Tất cả | ||||
Vodafone McLaren Mercedes | McLaren MP4-28 | Mercedes FO 108F | 5 | Jenson Button[8] | Tất cả | Kevin Magnussen[# 1]
Gary Paffett[# 1] Oliver Turvey[# 1] |
6 | Sergio Pérez[9] | Tất cả | ||||
Lotus F1 Team | Lotus E21 | Renault RS27-2013 | 7 | Kimi Räikkönen[10] | 1–17 | Jérôme D'Ambrosio
Nicolas Prost[# 1] |
Heikki Kovalainen[11] | 18–19 | |||||
8 | Romain Grosjean[12] | Tất cả | ||||
Mercedes AMG Petronas F1 Team | Mercedes F1 W04 | Mercedes FO 108F[13] | 9 | Nico Rosberg[14] | Tất cả | Sam Bird |
10 | Lewis Hamilton[15] | Tất cả | ||||
Sauber F1 Team | Sauber C32 | Ferrari Type 056 | 11 | Nico Hülkenberg[16] | Tất cả | Robin Frijns[# 1]
Kimiya Satō[# 1] |
12 | Esteban Gutiérrez[17] | Tất cả | ||||
Sahara Force India F1 Team | Force India VJM06 | Mercedes FO 108F | 14 | Paul di Resta[18] | Tất cả | Jules Bianchi[# 2]
James Rossiter[# 2] |
15 | Adrian Sutil[19] | Tất cả | ||||
Williams F1 Team | Williams FW35 | Renault RS27-2013 | 16 | Pastor Maldonado[20] | Tất cả | Daniel Juncadella[# 1]
Susie Wolff[# 1] |
17 | Valtteri Bottas[20] | Tất cả | ||||
Scuderia Toro Rosso | Toro Rosso STR8 | Ferrari Type 056 | 18 | Jean-Éric Vergne[21] | Tất cả | Sébastien Buemi
Johnny Cecotto jr.[# 1] Daniil Kvyat[# 1] |
19 | Daniel Ricciardo[21] | Tất cả | ||||
Caterham F1 Team | Caterham CT03 | Renault RS27-2013 | 20 | Charles Pic[22] | Tất cả | Sergio Canamasas
Ma Qinghua[# 3] |
21 | Giedo van der Garde[23] | Tất cả | ||||
Marussia F1 Team | Marussia MR02 | Cosworth CA2013 | 22 | Jules Bianchi[24] | Tất cả | Tio Ellinas[# 1]
Luiz Razia[# 2] |
23 | Max Chilton[25] | Tất cả |
Chú thích:
Vào tháng 11 năm 2012, Thesan Capital, công ty sở hữu của đội đua HRT, thông báo rằng họ đang rao bán đội này[43]. Do vậy, đội này cần tìm được người mua trước ngày 30 tháng 11—ngày phải trả phí để tham dự giải đấu năm 2013. Vì Thesan Capital đã không tìm được người mua kịp thời, HRT đã bị loại khỏi danh sách tham gia năm 2013[44].
Giải đua ô tô Công thức 1 Châu Âu bị tạm ngừng từ năm 2013 khiến năm 2013 trở thành mùa giải đầu tiên không có giải đua ô tô Công thức 1 Châu Âu kể từ năm 1998, với trường đua đường phố Valencia đã tổ chức sự kiện này từ năm 2008. Mặc dù vậy, khả năng trở lại của trường đua này trong tương lai không hoàn toàn bị loại trừ. Thế nhưng, vào ngày 12 tháng 3 năm 2013, trường đua đường phố Valencia đã đóng cửa vĩnh viễn và giải đua ô tô Công thức 1 Châu Âu đã quay trở lại lịch đua vào năm 2016 tại trường đua thành phố Baku ở Baku, Azerbaijan.
Bắt đầu từ năm 2008, giải đua ô tô Công thức 1 Đức đã diễn ra luân phiên giữa trường đua Nürburgring ở Nürburg và trường đua Hockenheimring ở Hockenheim. Nürburgring đã tổ chức giải đua ô tô Công thức 1 Đức vào năm 2013.
Giải đua ô tô Công thức 1 Nga đã nhận một hợp đồng vào năm 2013 và sẽ ra mắt tại trường đua Sochi ở Sochi, thành phố chủ nhà của Thế vận hội Mùa đông 2014. Tuy nhiên, chặng đua này đã bị trì hoãn đến năm 2014 sau khi việc xây dựng chưa hoàn thành.
Grand Prix of America được dự kiến đưa vào lịch và dự kiến sẽ diễn ra trên một trường đua đường phố mới ở New Jersey do Hermann Tilke thiết kế vào tháng 6 năm đó[45]. Tuy nhiên, ngay sau khi cuộc đua được ấn định ngày trên lịch tạm thời, Bernie Ecclestone đã hủy bỏ hợp đồng với các nhà tổ chức ở New Jersey[46] và các nhà tổ chức sau đó xác nhận rằng cuộc đua đã bị xóa khỏi lịch năm 2013 và được lên lịch lại cho 2014[47]. Việc cuộc đua bị hủy được cho là do không có đủ tất cả các giấy phép cần thiết để tổ chức cuộc đua từ nhiều chi nhánh của các cơ quan chính phủ tiểu bang và liên bang.
Từ mùa giải 2013, hệ thống DRS, trước đây được phép sử dụng trong buổi chạy, chỉ được phép sử dụng trong các khu vực DRS được chỉ định trong cuộc đua[48]. Ngoài ra, hệ thống DRS kép chủ động (còn được gọi là "trục F thụ động"), trong đó có cơ chế kích hoạt của DRS, bị cấm sử dụng cho các mục đích khác, chẳng hạn như trục F trên chiếc xe Mercedes F1 W03.
Lốp của Pirelli được sử dụng trong năm 2013 nặng hơn khoảng 2 kg mỗi bộ so với lốp năm ngoái do cấu trúc khác - 200 g cho lốp trước, 700 g cho lốp sau[49]. Do vậy, FIA tăng trọng lượng tối thiểu của xe đua (cộng thêm tay đua) từ 640 lên 642 kg.
Các đội được phép sử dụng bộ phận chắn để che mũi xe để chiếc xe đẹp hơn. Các bài thử nghiệm trên mũi xe đã được sửa đổi để chống lại sự biến dạng sau khi các đội đã phát triển lại đôi cánh tà rất đắt tiền vào năm ngoái. Loại cánh này bị biến dạng dưới áp suất tiếp xúc cao và do đó tính khí động học của chiếc xe đua được cải thiện.
Vì chỉ có 22 tay đua tham gia vào năm 2013 nên thể thức vòng phân hạng đã được điều chỉnh. Trong hai phần đầu tiên của vòng phân hạng, Q1 và Q2, sáu (thay vì bảy) tay đua chậm nhất sẽ bị loại. Phần cuối cùng vẫn được tranh tài bởi mười tay đua nhanh nhất[50].
Từ giải đua ô tô Công thức 1 Hungary trở đi, giới hạn tốc độ trong làn pit sẽ giảm từ 100 xuống 80 km/h và tất cả các thành viên trong đội pit trong cuộc đua bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm. Trong suốt vòng phân hạng và cuộc đua, chỉ các thành viên trong đội và nhân viên quan sát được phép di chuyển tự do trong làn pit và các đại diện truyền thông phải ở sát đường pit. Những thay đổi này được áp dụng sau khi chiếc xe của Mark Webber bị mất bánh sau bên phải vì bị lắp không đúng cách ngay sau khi đổi lốp tại giải đua ô tô Công thức 1 Đức. Lốp đó đâm phải một người quay phim khiến anh này phải nhập viện vì gãy xương và chấn động[51].
Giải đua ô tô Công thức 1 Úc, chặng đua đầu tiên của mùa giải, diễn ra ở trường đua Albert Park vào ngày 17 tháng 3 năm 2013 và kéo dài tổng cộng 58 vòng đua. Kimi Räikkönen giành chiến thắng cuộc đua này bằng cách sử dụng chiến thuật hai lần đổi lốp trước Fernando Alonso và Sebastian Vettel[52]. Đó cũng là chiến thắng thứ 20 của Kimi Räikkönen. Mặc dù xuất phát ở vị trí pole, Vettel về đích ở vị trí thứ 3[53]. Do trời mưa to, vòng phân hạng đã bị hủy bỏ sau phần đầu tiên và được kết thúc vào sáng Chủ nhật. Chỉ có 21 tay đua xuất phát vì chiếc xe đua Sauber của Nico Hülkenberg gặp sự cố về nhiên liệu. Maldonado chạy lệch khỏi đường đua và bỏ cuộc và một tay đua khác phải bỏ cuộc là Rosberg do hệ thống điện bị hỏng. Felipe Massa, Lewis Hamilton, Mark Webber, Adrian Sutil, Paul di Resta, Jenson Button và Romain Grosjean ghi điểm sau khi cuộc đua kết thúc[53]. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Ferrari dẫn đầu với 30 điểm trước Lotus F1 Team (26 điểm) và Red Bull Racing (23 điểm).
Giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia, chặng đua thứ hai trong tổng số 19 chặng đua của mùa giải này, diễn ra ở trường đua Sepang International vào ngày 24 tháng 3 năm 2013 và bao gồm 56 vòng đua. Khi bắt đầu cuộc đua, mặt đường đua vẫn còn hơi ướt và do đó vết dầu loang chỉ được sử dụng khi thờ tiết khô ráo trong cuộc đua. Vào cuối cuộc đua, hai tay đua của Red Bull so kè với nhau để giành chiến thắng một cách tranh cãi sau Mark Webber bịSebastian Vettel vượt[54] và một cuộc so kè khác nữa giữa các tay đua của Mercedes để giành vị trí thứ ba. Sebastian Vettel đã giành chiến thắng cuộc đua này trước đồng đội Webber và Lewis Hamilton[55]. Các tay đua còn lại lấy được điểm trong cuộc đua này là Nico Rosberg, Felipe Massa, Romain Grosjean, Kimi Räikkönen, Nico Hülkenberg, Sergio Pérez và Jean-Éric Vergne[56]. Với chiến thắng này, Vettel dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 40 điểm, xếp trên Räikkönen (31 điểm) và Webber (26 điểm). Trong bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing có được 66 điểm trước Lotus F1 Team (40 điểm) và Ferrari (cùng 40 điểm).
Fernando Alonso giành chiến thắng tại giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc tại trường đua Shanghai International với khoảng cách 10 giây trước Kimi Räikkönen và Lewis Hamilton[57]. Cuộc đua diễn ra vào ngày 14 tháng 4 năm 2013 với tổng cộng 56 vòng. Trong cuộc đua này, Mark Webber bỏ cuộc sau do mất một lốp xe vì đội đổi lốp của anh không lắp lốp đúng cách[58]. Các tay đua khác ghi điểm trong cuộc đua này là Sebastian Vettel, Jenson Button, Felipe Massa, Daniel Ricciardo, Paul di Resta, Romain Grosjean và Nico Hülkenberg[59]. Trong cuộc đua này, Ricciardo lập được kết quả tốt nhất của mình trong mùa giải này sau khi về đích ở vị trí thứ 7. Sau cuộc đua này, Vettel tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 52 điểm, xếp trên Räikkönen (49 điểm) và Alonso (43 điểm). Trong bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu với 78 điểm trước Ferrari (73 điểm) và Lotus F1 Team (60 điểm)[60].
Tại giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain diễn ra vào ngày 21 tháng 4 năm 2013, Sebastian Vettel giành chiến thắng cuộc đua này trước cặp tay đua của Lotus F1 Team, Kimi Räikkönen và Romain Grosjean, tương tự chặng đua vào năm 2012[61]. Vettel phần lớn dẫn đầu cuộc đua và cũng lập vòng đua nhanh nhất. Các tay đua ghi điểm khác trong chặng đua này là Paul di Resta, người đạt kết quả tốt nhất trong sự nghiệp Công thức 1 của mình, Lewis Hamilton, Sergio Pérez, Mark Webber, Fernando Alonso, Nico Rosberg và Jenson Button[62]. Vettel tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 77 điểm, xếp trên Räikkönen (67 điểm) và Hamilton (50 điểm)[63]. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu với 109 điểm trước Lotus F1 Team (93 điểm) và Ferrari (77 điểm)[63]. Ngoài ra, sự kiện này diễn ra trong điều kiện khó khăn vì các cuộc biểu tình chống lại chế độ chính trị ở Bahrain.
Điểm được trao cho các tay đua về đích ở 10 vị trí đầu tiên.[64]
Vị trí | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Số điểm | 25 | 18 | 15 | 12 | 10 | 8 | 6 | 4 | 2 | 1 |
|
Chú thích:
|
Chú thích:
Chú thích mở rộng cho các bảng trên:
Chú thích | |
---|---|
Màu | Ý nghĩa |
Vàng | Chiến thắng |
Bạc | Hạng 2 |
Đồng | Hạng 3 |
Xanh lá | Các vị trí ghi điểm khác |
Xanh dương | Được xếp hạng |
Không xếp hạng, có hoàn thành (NC) | |
Tím | Không xếp hạng, bỏ cuộc (Ret) |
Đỏ | Không phân hạng (DNQ) |
Đen | Bị loại khỏi kết quả (DSQ) |
Trắng | Không xuất phát (DNS) |
Chặng đua bị hủy (C) | |
Không đua thử (DNP) | |
Loại trừ (EX) | |
Không đến (DNA) | |
Rút lui (WD) | |
Không tham gia (ô trống) | |
Ghi chú | Ý nghĩa |
P | Giành vị trí pole |
Số mũ cao |
Vị trí giành điểm tại chặng đua nước rút |
F | Vòng đua nhanh nhất |
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.