Remove ads
From Wikipedia, the free encyclopedia
Borussia VfL 1900 Mönchengladbach e.V., hay gọi ngắn gọn là Gladbach, M'gladbach hoặc Borussia là một đội bóng Đức có trụ sở ở Mönchengladbach, North Rhine-Westphalia. Đội bóng chơi ở giải Bundesliga và một trong những đội bóng thành công nhất và được ủng hộ nhiều nhất tại Đức. Tháng 6 năm 2018, Gladbach có khoảng 75,000 thành viên chính thức và là câu lạc bộ thể thao lớn thứ 6 ở Đức.
Tên đầy đủ | Borussia VfL 1900 Mönchengladbach e.V. | |||
---|---|---|---|---|
Biệt danh | Die Fohlen (Những chú lừa) Die Borussen (Người Phổ) | |||
Thành lập | 1 tháng 8 năm 1900 | |||
Sân | Borussia-Park | |||
Sức chứa | 54,057 | |||
President | Rolf Königs | |||
Head coach | Gerardo Seoane | |||
Giải đấu | Bundesliga | |||
2023-24 | 14th | |||
Trang web | Trang web của câu lạc bộ | |||
| ||||
Đối thủ truyền kiếp của đội bóng là 1. FC Köln được gọi là Rheinland Derby (Derby sông Rhein). Ngoài ra còn có Borussia Dortmund, là Borussen derby (Derby nước Phổ).
Thời kì hoàng kim của đội bóng là thập niên 70 với 5 chức vô địch Bundesliga, vô địch 2 lần cúp C2 châu Âu và về nhì tại cúp C1 mùa giải 1976/77 với nhiều ngôi sao như Quả bóng vàng châu Âu Allan Simonsen cùng các thành viên tuyển Tây Đức gồm Günter Netzer, Berti Vogt, Jupp Heynckes, Herbert Wimmer, Uli Stielike, Rainer Bonhof và Wolfgang Kleff. Đội bóng cũng từng là 1 thế lực từng làm mưa làm gió tại đấu trường Châu Âu trong cuối thập niên 60 đến đầu năm 90.
Giai đoạn những năm 1970 cũng là thời kỳ Bundesliga diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất giữa 2 ông lớn của bóng đá Đức lúc bấy giờ là Borussia Mönchengladbach và Bayern Munich. Hai đội đã có cú ăn ba liên tiếp tại các giải quốc nội với nhiều ngôi sao trong đội hình.[1] Nickname chính thức của đội bóng là Die Fohlen [diː ˈfoːlən] ("Những chú lừa") dựa vào đội hình của Gladbach những năm 70 với đội hình trẻ chơi lì lợm và hung hăng.
Linh vật của đội bóng là chú lừa Jünter.
"Borussia" là cách đọc theo tiếng La-Tin của Phổ, một cái tên gắn liền với nhiều đội bóng Đức đóng ở Prussia trước kia.
Năm 2004, Borussia Mönchengladbach đã xây dựng sân vận động Borussia-Park với sức chứa 54,057 chỗ ngồi thay thế cho sân Bökelbergstadion được sử dụng từ năm 1919.
Màu truyền thống của đội bóng là trắng-đen-xanh lá.
Vào tháng 10 năm 2016, Gladbach cũng đã từng sử dụng biệt danh A German Team sau khi một quán rượu Scotland không đánh vần tên đầy đủ của câu lạc bộ trên một bảng quảng cáo tại một trận đấu của UEFA Champions League với Celtic F.C. tại Glasgow.
Borussia Mönchengladbach thời kì mới thành lập lấy tên là FC Borussia trong những năm 1900 tại quận Eicken, Mönchengladbach.
Tháng 3 năm 1914, câu lạc bộ bán sân De Kull, và xây dựng sân vân động mới là Bökelbergstadion (Boekelberg). Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới Lần 1, đội bóng vẫn sử dụng song song 2 sân nhưng đến năm 1917 thì chuyển hẳn sang sân Boekelberg. Năm 1919, FC Borussia hợp nhất với 1 Câu lạc bộ bóng đá địa phương khác, Turnverein Germania 1889, trở thành 1899 VfTuR M.Gladbach. Câu lạc bộ dành danh hiệu đầu tiên vào năm 1920, sau khi đánh bại Kölner BC 3–1 tại trận chung kết để đăng quang giải đấu Westdeutsche Meisterschaft.
Tuy nhiên liên minh này lại tan rã chỉ sau 2 năm; cậu lạc bộ sau đó đổi tên thành Borussia VfL 1900 e.V. M.Gladbach.[2]
Trong thời kì Đảng Quốc Xã đang lớn mạnh và cực thịnh vào năm 1933, hệ thống các giải đấu bóng đá tại Mönchengladbach được hoàn thiện bắt đầu với 16 đội bóng – Gladbach là 1 trong những đội bóng đầu tiên của Gauliga Niederrhein, và sau đó là Bezirksklassen (các giải đấu cấp bang). Dưới thời Đức Quốc Xã, Mönchengladbach đã có 1 cầu thủ đầu tiên được lên tuyển; Heinz Ditgens chơi trong trận thắng 9–0 của Đức trước Luxembourg tại Thế vận hội Mùa Hè 1936 Olympic Games. Trong thời gian thế chiến thế giới thứ II nổ ra,các giải đấu tạm ngưng trệ, cho đến khi trở lại bình thường vào mùa giải 1944–45.
Cuối cùng, Mönchengladbach trở lại vào 6/1946, và thăng hạng lên Landesliga Niederrhein (hạng Nhất quốc gia khu vực bang North Rhine-Westphalia) vào năm 1949 và Oberliga West (Giải đấu cấp cao nhất của bang North Rhine-Westphalia từ năm 1947, sau này sáp nhập với các giải vô địch bang khác ở Tây Đức thành lập ra Bundesliga năm 1963), năm 1950. Sau nhiều năm lên rồi xuống hạng, Borussia có danh hiệu Oberliga đầu tiên vào mùa giải 1958–59.
Seasons 1959–60 – 1964–65 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Season | Position | Goals For | Goals Against | Points | Average Attendance |
Oberliga West 1959–60 | 14 | 27 | 33 | 38 | 16,134 |
Oberliga West 1960–61 | 6 | 31 | 29 | 58 | 22,400 |
Oberliga West 1961–62 | 13 | 21 | 39 | 42 | 13,543 |
Oberliga West 1962–63]] | 11 | 24 | 36 | 44 | 11,200 |
Regionalliga West 1963–64 | 8 | 41 | 35 | 71 | 12,000 |
Regionalliga West 1964–65 | 1 | 52 | 16 | 92 | 22,334 |
gold: promotion to the Bundesliga as Champions |
8/1960, Borussia Mönchengladbach đánh bại kình địch 1. FC Köln tại West German Cup. Vài tuần sau, câu lạc bộ tiếp tục vô địch DFB-Pokal, với chiến thắng trước Karlsruher SC 3–2 trong trận chung kết. Những năm tiếp theo, câu lạc bộ đổi tên thành Borussia VfL Mönchengladbach sau khi thành phố München-Gladbach đổi tên thành Mönchengladbach. Tuy nhiên, phải chờ đến 1 thập kỉ tiếp theo đội bóng mới có danh hiệu. Borussia là mội trong những đội bóng sáng lập ra Bundesliga khi giải đấu này thành lập vào năm 1963 tuy nhiên đội bóng khi đó chưa có đủ tiềm lực để trụ lại giải đấu, và sau đó họ tiếp tục phải xuống chơi ở giải hạng Nhất Tây Đức, the Regionalliga West.
Mönchengladbach trở lại Bundesliga vào mùa giải 1965–66, dưới thời Huấn luyện viên Hennes Weisweiler, Borussia dần lớn mạnh và trở thành đối trọng số 1 của Bayern Munich tại giải đấu. Hai đội bóng tham gia vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt khi họ thay phiên nhau thống trị Bundesliga trong suốt những năm 1970s. Bayern giai đoạn này cũng đang trong thời kì hoàng kim của mình với HLV Udo Lattek và dàn sao như Franz Beckenbauer, Gerd Müller, Sepp Maier, Uli Hoeneß, Paul Breitner, Hans-Georg Schwarzenbeck và Franz Roth. Bayern là kẻ nổ phát súng đầu tiên với chức vô địch Bundesliga mùa giải 1969. Mönchengladbach sau đó cũng vô địch 2 mùa liên tiếp là 1969/1970 và 1970/1971 sau đó, trở thành đội bóng Bundesliga đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch.
Đội hình thế kỷ của Gladbach do ban tổ chức Bundesliga bầu chọn
.
.
.
Mùa giải | Đội vô địch Bundesliga[3] |
63–64 | 1. FC Köln |
64–65 | Werder Bremen |
65–66 | 1860 Munich |
66–67 | Eintracht Braunschweig |
67–68 | 1. FC Nürnberg |
68–69 | Bayern Munich |
69–70 | Borussia Mönchengladbach |
70–71 | Borussia Mönchengladbach |
71–72 | Bayern Munich |
72–73 | Bayern Munich |
73–74 | Bayern Munich |
74–75 | Borussia Mönchengladbach |
75–76 | Borussia Mönchengladbach |
76–77 | Borussia Mönchengladbach |
77–78 | 1. FC Köln |
78–79 | Hamburger SV |
79–80 | Bayern Munich |
Mùa giải 1969–70 – 1979–80 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Season | Position | Goals For | Goals Against | Points | Average Attendance |
1969–70 | First | 71 | 29 | 51 | 25,645 |
1970–71 | First | 77 | 35 | 50 | 21,706 |
1971–72 | Third | 82 | 40 | 43 | 16,294 |
1972–73 | Fifth | 82 | 61 | 39 | 14,912 |
1973–74 | Second | 93 | 52 | 48 | 22,265 |
1974–75 | First | 86 | 40 | 50 | 22,150 |
1975–76 | First | 66 | 37 | 45 | 23,647 |
1976–77 | First | 58 | 34 | 44 | 25,135 |
1977–78 | Second | 86 | 44 | 48 | 26,059 |
1978–79 | Tenth | 50 | 53 | 32 | 20,129 |
1979–80 | Seventh | 61 | 60 | 36 | 17,655 |
màu xanh: vô địch Bundesliga |
Bayern Munich trở thành CLB Đức đầu tiên vô địch 3 mùa giải liên tiếp, trong khi Borussia về nhì với chỉ ít hơn 1 điểm so với Bayern mùa giải 1974. Die Fohlen cũng một lần nữa dành chiến thắng 2–1 trước kình địch 1. FC Köln vào mùa giải 1973 để lần thứ 2 đăng quang DFB-Pokal. Dưới sự chỉ đạo của Hennes Weisweiler, đội hình trẻ trung của Gladbach trở nên nổi tiếng trên toàn nước Đức bởi lối chơi tấn công huỷ diệt và cạnh tranh sòng phẳng với Bayern Munich. Gladbach là đội bóng Đức đầu tiên dành 3 chức vô địch quốc gia liên tiếp từ mùa giải 1975 tới 1977. Thậm chí, Mönchengladbach lọt vào tới trận chung kết Cúp C1 Châu Âu vào năm 1977 và thua Liverpool, cùng lúc đó đội bóng cũng đã dành 2 danh hiệu UEFA Cup vào mùa giải 1975 và 1979 và về nhì tại UEFA Cup 1973 và 1980. Gladbach có tổng cộng 8 danh hiệu trong thập niên 70's, là thời gian thành công nhất của CLB.[4]
Mönchengladbach's kết thúc kỉ nguyên vàng vào những năm 1980s khi CLB bán đi những ngôi sao do tình hình tài chính khó khăn, những huấn luyện viên tài năng Hennes Weisweiler và Udo Lattek đều đã ra đi, cùng với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Hamburger SV, đã không còn là đối trọng lớn nhất của Bayern Munich. Đội bóng thường xuyên kết thúc mùa giải ở vị trí nửa trên BXH, và mùa giải 1984 cũng khỏi sắc hơn, Die Fohlen kết thúc mùa giải trong top 4. Nhiều hơn 1 điểm so với Bayern, khi đó xếp thứ 4, cùng điểm với đội á quân Hamburger SV và đội vô địch VfB Stuttgart, chỉ khác hiệu số bàn thắng. Cũng trong mùa giải đó, Mönchengladbach đã thua trong trận chung kết DFB-Pokal trước Bayern Munich trong loạt đá penalty, Lothar Matthäus và Norbert Ringels là những người thực hiện không thành công panlty sau khi 2 đội kết thúc 90' với tỉ số 1–1. Matthäus sau đó đã gia nhập Bayern Munich với giá chuyển nhượng 2.25 triệu DM, và các fan của Gladbach khi đó đã coi ông là Judas và cũng cho rằng vì nguyên nhân này mà đá hỏng penalty.[5]
Trong những năm 1990s, Gladbach thường xuyên ngụp lặn ở nửa dưới bảng xếp hạng. Cuối cùng, mùa giải 1999, Gladbach lần đầu xuống chơi tại 2. Bundesliga, dành 2 mùa giải rồi trở lại Bundesliga năm 2001.
Và mùa giải 2006–07, Borussia Mönchengladbach một lần nữa xuống hạng sau khi thất bại trong cuộc cạnh tranh giành vé vớt với đối thủ trực tiếp Arminia Bielefeld. Đội bóng trở lại Bundesliga vào mùa giải sau đó.
Năm 2011, Lucien Favre, đã đến tiếp quản Borussia Mönchengladbach và đội bóng thường xuyên kết thúc mùa giải ở top 6 Bundesliga. Khi Favre đến, đội bóng đang phải vật lộn với cuộc chiến trụ hạng. Sang mùa giải tiếp theo, 2011–12, Gladbach đã lọt vào top 4 Bundesliga. Đội bóng đã dừng chân tại vòng sơ loại 2012–13 UEFA Champions League sau khi thua Dynamo Kyiv cả hai lượt trận.
2 Mùa giải 2013–14 Bundesliga và 2014–15 Bundesliga, Gladbach kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3, và vào thằng vòng bảng UEFA Champions League.[6]. Tại mùa giải 2014/15 Gladbach cùng bảng với Juventus, Manchester City và Sevilla, có 5 điểm, sau khi hòa Juventus cả hai lượt trận và thắng Sevilla 4–2 trên sân nhà, đội bóng phải xuống chơi tại UEFA Europe Leagues và kết thúc hành trình ở vòng 1/8.
Mùa giải 2016–17, Borussia tham dự Champions League 2016-17, giành được 2 chiến thắng trước Celtic và xuống chơi tại Europa Leagues.
Rank | Team | |
---|---|---|
46 | Celtic | 31.000 |
47 | Sporting Braga | 30.500 |
48 | PAOK Thessaloniki | 29.500 |
Club Brugge | ||
Galatasaray | ||
51 | Borussia Mönchengladbach | 29.000 |
52 | Milan | 28.000 |
53 | Steaua București | 27.500 |
54 | APOEL Nicosia | 27.000 |
AA Gent | ||
Racing Genk |
Borussia Mönchengladbach coaching history from 1946 to present | |
---|---|
|
|
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.
|
Role | Nation | Name |
---|---|---|
Sporting director | Germany | Roland Virkus |
Manager | Switzerland | Gerardo Seoane |
Assistant Manager | Switzerland | Patrick Schnarwiler |
First-Team coach | Germany | Christopher John |
First-Team coach | Germany | Oliver Neuville |
Goalkeeping coach | Germany | Uwe Kamps |
Goalkeeping coach | Germany | Fabian Otte |
Trainer transition area | Poland | Eugen Polanski |
Athletic trainer | Germany | Alexander Mouhcine |
Athletic trainer | Germany | Jonas Rath |
Athletic trainer | Germany | Markus Müller |
Team doctor | Germany | Dr. Heribert Ditzel |
Team doctor and orthopedic surgeon | Germany | Dr. Stefan Hertl |
Team doctor and orthopedic surgeon | Germany | Ralf Doyscher |
Physiotherapist | Germany | Holger Wagner |
Physiotherapist | Germany | Hendrik Schreiber |
Physiotherapist | Germany | Dirk Müller |
Physiotherapist | Poland | Adam Szordykowski |
Tính riêng Bundesliga
# | Name | Matches |
---|---|---|
1° | Berti Vogts | 419 |
2° | Uwe Kamps | 390 |
3° | Herbert Wimmer | 366 |
4° | Christian Hochstätter | 339 |
5° | Hans-Günter Bruns | 331 |
6° | Wolfgang Kleff | 321 |
7° | Hans-Jörg Criens | 290 |
8° | Jupp Heynckes | 283 |
9° | Michael Klinkert | 274 |
10° | Martin Schneider | 266 |
# | Name | Goals |
---|---|---|
1° | Jupp Heynckes | 195 |
2° | Herbert Laumen | 97 |
3° | Hans-Jörg Criens | 92 |
4° | Günter Netzer | 82 |
5° | Uwe Rahn | 81 |
6° | Allan Simonsen | 76 |
7° | Frank Mill | 71 |
8° | Hans-Günter Bruns | 61 |
9° | Martin Dahlin | 60 |
10° | Wilfried Hannes | 58 |
5 chức vô địch Bundesliga từ năm 1963 tới nay của Borussia Mönchengladbach giúp đội bóng có 2 ngôi sao vàng.
Cúp quốc gia Đức:
2. Bundesliga:
Kirin Cup:
Joan Gamper Trophy:
Orange Trophy:
Giải bóng đá U-17 Đức:
Giải bóng đá vô địch U-17 Đức phía Tây
Các cầu thủ của câu lạc bộ đã từng đoạt các danh hiệu sau:
Cầu thủ của năm - châu Âu
Cầu thủ của năm - Đức
Cầu thủ của năm - Úc
Cầu thủ của năm - Úc
Cầu thủ của năm - Bỉ
Cầu thủ của năm - Đan Mạch
Cầu thủ của năm - Thụy Điển
Cầu thủ của năm - Mĩ
Vua phá lưới Bundesliga
Bàn thắng đẹp nhất mùa giải
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.