![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/5d/20160604_AUT_NED_8876_%2528cropped%2529.jpg/640px-20160604_AUT_NED_8876_%2528cropped%2529.jpg&w=640&q=50)
Virgil van Dijk
cầu thủ bóng đá người Hà Lan / From Wikipedia, the free encyclopedia
Virgil van Dijk (phát âm tiếng Hà Lan: [vɑn ˈdɛik]; sinh ngày 8 tháng 7 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ, đồng thời còn là đội trưởng của cả câu lạc bộ Premier League Liverpool và đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan. Là một trung vệ được biết đến với sức mạnh, thể lực, khả năng lãnh đạo và khả năng không chiến tốt, anh được đánh giá là một trong những trung vệ xuất sắc nhất thế giới trong thế hệ của mình.[4][5][6] Năm 2019, anh được bầu chọn là Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA, đồng thời còn là trung vệ xuất sắc nhất năm 2019 theo ESPN.[7][8]
![]() Van Dijk trong màu áo Hà Lan vào năm 2016 | |||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Virgil van Dijk[1] | ||||||||||||||||
Ngày sinh | 8 tháng 7, 1991 (33 tuổi)[2] | ||||||||||||||||
Nơi sinh | Breda, Hà Lan | ||||||||||||||||
Chiều cao | 1,95 m (6 ft 5 in)[3] | ||||||||||||||||
Vị trí | Trung vệ | ||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||
Đội hiện nay | Liverpool | ||||||||||||||||
Số áo | 4 | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||
2009–2010 | Willem II | ||||||||||||||||
2010–2011 | Groningen | ||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
2011–2013 | Groningen | 62 | (7) | ||||||||||||||
2013–2015 | Celtic | 76 | (9) | ||||||||||||||
2015–2018 | Southampton | 67 | (4) | ||||||||||||||
2018– | Liverpool | 197 | (18) | ||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||
2011 | U-19 Hà Lan | 1 | (0) | ||||||||||||||
2011–2013 | U-21 Hà Lan | 3 | (0) | ||||||||||||||
2015– | Hà Lan | 68 | (9) | ||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 19 tháng 5 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 10 tháng 6 năm 2024 |
Sau khi bắt đầu sự nghiệp của mình với Groningen, anh chuyển đến Celtic vào năm 2013, nơi anh giành chức vô địch Ngoại hạng Scotland và được đặt tên trong đội hình tiêu biểu trong cả hai mùa giải của anh, đồng thời anh cũng giành chiến thắng tại Cúp bóng đá Liên đoàn Scotland sau đó. Tháng 9 năm 2015, anh gia nhập Southampton. Anh gia nhập Liverpool vào tháng 1 năm 2018 với mức phí kỷ lục cho một hậu vệ[9] và ngay lập tức đưa CLB vào chung kết UEFA Champions League mùa giải năm đó nhưng thất bại trong trước Real Madrid, ngoài ra Van Dijk được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA và Cầu thủ Ngoại hạng Anh xuất sắc nhất mùa giải 2018-19.[10] Van Dijk thêm một lần cùng Liverpool lọt vào trận chung kết UEFA Champions League mùa 2018-2019 và đã trở thành nhà vô địch;[11] đồng thời cùng Liverpool giành Á quân Ngoại hạng Anh với số điểm cao nhất trong lịch sử giải đấu.[12]
Van Dijk có trận ra mắt cho đội tuyển Hà Lan vào năm 2015 và trở thành đội trưởng vào năm 2018. Năm 2019, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho tuyển trong chiến thắng 3-0 trước nhà vô địch châu Âu Bồ Đào Nha và ba tháng sau, anh cùng đội tuyển lọt vào trận chung kết UEFA Nations League 2019 nhưng để thua Bồ Đào Nha. Ngày 2 tháng 12 năm 2019, anh về nhì trong cuộc đua giành Quả Bóng Vàng, xếp sau Lionel Messi với số phiếu bầu sít sao.