Cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Điển gốc Hungary From Wikipedia, the free encyclopedia
Viktor Einar Gyökeres (phát âm tiếng Hungary: [ˈɟøkɛrɛʃ], sinh ngày 4 tháng 6 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Điển hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ bóng đá Sporting CP tại Primeira Liga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển.
Gyökeres trong màu áo Brighton & Hove Albion năm 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Viktor Einar Gyökeres[1] | ||
Ngày sinh | 4 tháng 6, 1998 [2] | ||
Nơi sinh | Stockholm, Thụy Điển | ||
Chiều cao | 1,87 m[2] | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Sporting CP | ||
Số áo | 9 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
IFK Aspudden-Tellus | |||
2013–2015 | IF Brommapojkarna | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2015–2017 | IF Brommapojkarna | 56 | (20) |
2018–2021 | Brighton & Hove Albion | 0 | (0) |
2019–2020 | → FC St. Pauli (mượn) | 26 | (7) |
2020–2021 | → Swansea City (mượn) | 11 | (0) |
2021 | → Coventry City (mượn) | 19 | (3) |
2021–2023 | Coventry City | 91 | (38) |
2023– | Sporting CP | 37 | (36) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2015–2018 | U-19 Thụy Điển | 18 | (10) |
2019–2020 | U-21 Thụy Điển | 8 | (4) |
2019– | Thụy Điển | 22 | (9) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21:36, 31 tháng 8 năm 2024 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 21:39, 9 tháng 9 năm 2024 (UTC) |
Gyökeres bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ IFK Aspudden-Tellus trước khi chuyển đến câu lạc bộ IF Brommapojkarna vào năm 2013.[3]
Gyökeres ký hợp đồng với IF Brommapojkarna sau khi rời IFK Aspudden-Tellus vào năm 2013 và gia nhập đội cấp độ U-17 của câu lạc bộ. Anh thi đấu cho các đội trẻ và ra mắt đội tuyển quốc gia hai năm sau đó.[4] Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 20 tháng 8 năm 2015 khi lập cú đúp trong chiến thắng 3–0 trước IF Sylvia tại Svenska Cupen.[4] Năm sau, khi câu lạc bộ đã phải xuống hạng sau mùa giải trước, Gyökeres đã ghi bảy bàn để giúp Brommapojkarna thăng hạng trở lại Superettan.[5] Sau đó, anh giúp Brommapojkarna vào bán kết Svenska Cupen khi ghi bàn thắng quyết định trong trận tứ kết với đội bóng hạng nhất Elfsborg.[6] Tuy nhiên, Brommapojkarna đã không thể tiếp tục tiến xa hơn khi gặp thất bại trước IFK Norrköping với tỷ số 4–0 ở vòng tiếp theo.
Vào ngày 6 tháng 9 năm 2017, sau khi ghi 10 bàn thắng cho đến thời điểm đó, Gyökeres đã ký hợp đồng hai năm rưỡi với đội bóng Brighton & Hove Albion tại Premier League với thỏa thuận sẽ được thực hiện khi mùa giải Superettan kết thúc.[7] Anh kết thúc mùa giải với 13 bàn thắng sau 29 lần ra sân ở giải đấu, bao gồm một hat-trick vào ngày thi đấu cuối cùng khi Brommapojkarna giành quyền thăng hạng lên Allsvenskan với tư cách là nhà vô địch giải đấu.[8]
Gyökeres gia nhập Brighton vào ngày 1 tháng 1 năm 2018[9] và sau đó bắt đầu tập luyện cùng đội U-23 của câu lạc bộ.[10] Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ vào ngày 28 tháng 8 trong trận thua 1–0 trước Southampton tại EFL Cup.[11] Vào ngày 26 tháng 1 năm 2019, Gyökeres có trận ra mắt FA Cup khi vào sân thay người trong trận hòa 0–0 trên sân nhà trước West Bromwich Albion.[12]
Vào tháng 7 năm 2019, Gyökeres gia nhập đội bóng hạng hai của Đức FC St. Pauli theo dạng cho mượn trong mùa giải 2019–20.[13] Anh ra mắt với tư cách cầu thủ dự bị trong trận hòa 1–1 trước Arminia tại vòng thi đấu đầu tiên của giải hạng hai Đức.[14] Gyökeres ghi bàn thắng đầu tiên cho St. Pauli vào ngày 29 tháng 9 khi ghi bàn thứ hai trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước SV Sandhausen.[15]
Sau khi mùa giải 2019–20 kết thúc, Gyökeres quay trở lại Brighton. Vào ngày 17 tháng 9 năm 2020, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Brighton trong chiến thắng 4–0 trước Portsmouth ở EFL Cup.[16]
Vào ngày 2 tháng 10 năm 2020, Gyökeres gia nhập đội bóng Swansea City tại EFL Championship dưới dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải 2020–21.[17] Anh ra mắt một ngày sau đó khi vào sân thay người trong chiến thắng 2–1 trên sân nhà trước Millwall.[18] Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Swansea vào ngày 9 tháng 1 năm 2021 khi ghi bàn thứ hai trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Stevenage, giúp Swansea lọt vào vòng 4 FA Cup.[19] Vào ngày 14 tháng 1 năm 2021, anh quay trở lại Brighton.[20]
Gyökeres gia nhập Coventry City theo dạng cho mượn vào ngày 15 tháng 1 năm 2021.[21] Anh đá chính và chơi 59 phút trong trận ra mắt với câu lạc bộ bốn ngày sau đó, trong trận thua 0–3 trên sân khách trước Reading.[22] Anh ghi bàn trong lần ra sân đầu tiên tại sân vận động St Andrew's trong chiến thắng chung cuộc 2–0 trước Sheffield Wednesday vào ngày 27 tháng 1. Đây chính là bàn thắng đầu tiên của anh ở làng bóng đá Anh.[23]
Anh trở lại Coventry City vào ngày 9 tháng 7 năm 2021 sau khi ký hợp đồng có thời hạn 3 năm.[24] Gyökeres ghi bàn trong trận mở màn mùa giải EFL Championship 2021–22 của Coventry vào ngày 8 tháng 8 năm 2021 để giúp Coventry lội ngược dòng trong chiến thắng chung cuộc 2–1 trước Nottingham Forest, trận sân nhà đầu tiên của Coventry kể từ tháng 4 năm 2019 sau khi chia sân với Birmingham City.[25] Trong suốt mùa giải 2021–22, Gyökeres ghi 17 bàn sau 45 lần ra sân cho Coventry City.[26]
Vào tháng 11 năm 2022, trong mùa giải EFL Championship 2022–23, anh được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất tháng sau khi ghi bốn bàn sau bốn trận để giúp Coventry có bốn trận thắng liên tiếp trong khoảng thời gian đó.[27] Anh được vinh danh giải thưởng này lần thứ hai vào tháng 3 năm 2023 sau khi ghi ba bàn thắng và thực hiện ba đường kiến tạo.[28]
Vào ngày 13 tháng 7 năm 2023, Gyökeres chuyển đến Sporting CP với bản hợp đồng có thời hạn 5 năm với trị giá kỷ lục 20 triệu euro kèm 4 triệu euro tiền thưởng.[29][30] Coventry cũng nhận được từ 10 đến 15% lợi nhuận mà Sporting đã nhận được từ một vụ chuyển nhượng trong tương lai và điều khoản giải phóng được đặt ở mức 100 triệu euro.[31]
Vào ngày 12 tháng 8, Gyökeres đá chính và ghi hai bàn trong trận ra mắt câu lạc bộ của anh, trận chiến thắng 3–2 trên sân nhà trước Vizela.[32] Vào ngày 21 tháng 9, Gyökeres đá chính trong trận ra mắt của anh ở đấu trường châu Âu và ghi bàn trong chiến thắng 2–1 trên sân khách trước Sturm Graz ở vòng bảng UEFA Europa League.[33] Vào ngày 26 tháng 10, anh nhận thẻ đỏ đầu tiên trong sự nghiệp câu lạc bộ của mình sau tám phút mở màn trong chuyến làm khách của Sporting CP trước Raków Częstochowa tai vòng bảng UEFA Europa League.[34] Vào ngày 2 tháng 11, Gyökeres đã lập hat-trick trong chiến thắng 4–2 trên sân nhà trước Farense trong trận ra mắt Taça da Liga của mình.[35] Mười ngày sau, anh ghi bàn trong trận thua 2–1 trước kình địch địa phương Benfica.[36] Vào ngày 26 tháng 11, Gyökeres vào sân thay người ở hiệp hai và ghi bàn thắng cuối cùng cho Sporting trong trận thắng 8–0 trên sân nhà trước câu lạc bộ Campeonato de Portugal Dumiense tại Taça de Portugal.[37] Vào ngày 19 tháng 12, anh ghi bàn và kiến tạo trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước đối thủ Porto.[38]
Vào ngày 5 tháng 1 năm 2024, Gyökeres thực hiện bốn pha kiến tạo trong chiến thắng 5–1 trên sân nhà trước Estoril.[39] Vào ngày 17 tháng 3, anh ghi hat-trick đầu tiên tại Primeira Liga trong chiến thắng 6–1 trước Boavista.[40] Từ tháng 9 năm 2023 đến tháng 1 năm 2024, Gyökeres ghi 13 bàn và thực hiện 6 pha kiến tạo và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng và Tiền đạo của tháng trong vòng năm tháng liên tiếp. Vào ngày 29 tháng 4, khi Sporting bị dẫn trước hai bàn, anh ghi một cú đúp ở phút thứ 8 và 88 trong trận hòa 2–2 trước Porto trong chuyến làm khách tại Sân vận động Dragão để đảm bảo vị trí đầu bảng xếp hạng với 5 điểm trước đối thủ Benfica cho Sporting.[41] Vào cuối tháng, Gyökeres một lần nữa được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng và Tiền đạo của tháng.
Vào ngày 5 tháng 5, Sporting đã giành được danh hiệu Primeira Liga thứ 20 về mặt toán học sau thất bại của Benfica trước Famalicão.[42] Gyökeres kết thúc mùa giải đầu tiên tại câu lạc bộ với tư cách là Vua phá lưới Primeira Liga với 29 bàn thắng và đồng thời ghi một cú đúp trong trận đấu cuối cùng của Sporting trong mùa giải gặp Chaves vào ngày 18 tháng 5[43] để trở thành cầu thủ Thụy Điển thứ hai giành được danh hiệu Vua phá lưới sau Mats Magnusson vào mùa giải 1989–90.[44] Vào ngày 28 tháng 5, hai ngày sau khi ra sân cho câu lạc bộ trong trận chung kết Cúp Bồ Đào Nha, Gyökeres đã trải qua ca phẫu thuật đầu gối trái ở Lisbon.[45]
Gyökeres từng là cầu thủ trẻ của Thụy Điển ở các cấp độ lứa tuổi U-19 và U-21.[46]
Gyökeres thường xuyên ra sân cho Thụy Điển trong vòng loại Giải vô địch U-19 châu Âu 2017. Anh ghi hai bàn,[47] bao gồm bàn thắng ấn định chiến thắng vào lưới Ý để giúp Thụy Điển lần đầu tiên tham dự giải đấu này. Sau đó, anh được chọn vào đội tham dự giải đấu ở Gruzia và ghi bàn trong cả ba trận đấu vòng bảng của Thụy Điển nhưng anh đã không thể giúp Thụy Điển tiến vào vòng loại trực tiếp của giải đấu. Ba bàn thắng của Gyökeres sau đó giúp anh chia giải thưởng Chiếc giày vàng với Ben Brereton Díaz, Ryan Sessegnon (Anh) và Joël Piroe (Hà Lan).[48]
Vào ngày 8 tháng 1 năm 2019, Gyökeres có trận ra mắt cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển trong trận thua 0–1 trước Phần Lan.[49] Chỉ ba ngày sau, Gyökeres ghi bàn thắng đầu tiên cho Thụy Điển trong trận hòa 2–2 trước Iceland.[50]
Vào tháng 10 năm 2021, sau khi ghi 9 bàn sau 11 trận tại EFL Championship cho Coventry, Gyökeres được gọi vào đội tuyển quốc gia Thụy Điển để thay thế Zlatan Ibrahimović trong trận gặp Kosovo và Hy Lạp ở vòng loại World Cup 2022.[51]
Trong trận gặp Bỉ ở vòng loại Euro 2024 trên sân khách vào ngày 16 tháng 10 năm 2023, Viktor Gyökeres mở tỷ số cho Thụy Điển ở phút thứ 15 trước khi bị Romelu Lukaku gỡ hòa. Sau hiệp một, trận này bị hủy bỏ sau khi hai cổ động viên người Thụy Điển bên ngoài sân vận động bị bắn chết bởi một người đàn ông gốc Tunisia tự xưng là một thành viên của Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIS) trong một vụ xả súng chết người liên quan đến khủng bố Hồi giáo ở Bruxelles.[52]
Gyökeres là một cầu thủ bóng đá có thể hình khỏe mạnh và anh sử dụng sức mạnh của mình để đảm bảo quyền kiểm soát bóng khi gặp áp lực. Hơn nữa, anh có khả năng xoay người rất nhanh và đồng thời là một người chạy nhanh, mạnh mẽ khi đang chơi bóng và là mối đe dọa trước khung thành. Anh cũng giành được hiệu quả trong việc mang lại cho các hậu vệ của đội mình một chút thời gian nghỉ ngơi sau khi cản phá. Là một tiền đạo mạnh mẽ và thể chất, anh gây chú ý nhờ tốc độ, sức chịu đựng và khả năng dứt điểm cũng như khả năng gây bất ngờ cho đối thủ bằng những màn trình diễn kỹ thuật bùng nổ nhờ kỹ năng điều khiển bóng, xử lý bóng trong khu vực chật hẹp và ứng biến khi cần thiết.[53][54][55]
Gyökeres được biết đến qua kiểu ăn mừng bàn thắng của mình bằng cách bắt chéo cả hai tay lên miệng. Đồng đội của anh ở Coventry City, Josh Eccles, từng nói vào tháng 3 năm 2023 rằng anh đã biết đến kiểu ăn mừng bàn thắng này dựa trên nhân vật Hannibal Lecter.[56] Thông qua một bài báo của tờ báo Thụy Điển Aftonbladet vào tháng 11 năm 2023, khi Gyökeres đang thi đấu cho Sporting CP, Viktor Gyökeres đã nói rằng kiểu ăn mừng bàn thắng có chứa đựng nhiều suy đoán, một mặt là sự kết hợp giữa Hannibal Lecter và Người Dơi và mọi thứ có thể, mặt khác thì không ai hiểu đúng nó.[57] Vào ngày 18 tháng 12, trong cuộc phỏng vấn cho Sport TV sau chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước đối thủ Porto, Gyökeres được hỏi về màn ăn mừng bàn thắng thường lệ của anh. Anh đã trả lời rằng: "Tôi nghĩ bạn sẽ hỏi tôi sớm hơn. Tôi đã ở đây được vài tháng và chưa có ai hỏi tôi câu hỏi đó cả... Tôi sẽ kể cho bạn sau mùa giải nếu chúng tôi vô địch giải VĐQG... không vấn đề gì".[58][59] Vào tháng 6 năm 2024, giới truyền thông Bồ Đào Nha tuyên bố rằng màn ăn mừng bàn thắng của anh được lấy cảm hứng từ Bane, một nhân vật truyện tranh, sau khi Gyökeres đăng trên Instagram một cụm từ được cho là của Bane.[60]
Gyökeres sinh ra và lớn lên ở Stockholm và anh là người gốc Hungary thông qua ông nội.[61][62] Anh từng có một mối quan hệ với Amanda Nildén, một nữ cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và người đồng hương của anh. Sau khi chuyển đến Brighton vào năm 2018, anh đã cùng Nildén chuyển đến Anh. Sau đó, Nildén đã gây ấn tượng và do vậy đảm bảo được một suất đá chính trong đội nữ của Brighton.[63] Gyökeres và Nildén biết nhau ở tuổi thiếu niên khi họ còn chơi cho IF Brommapojkarna, một câu lạc bộ ở ngoại ô Stockholm.[64] Vào tháng 1 năm 2024, có thông tin tiết lộ rằng anh có mối quan hệ với nữ diễn viên người Bồ Đào Nha Inês Aguiar.[65][66]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia[lower-alpha 1] | Cúp Liên đoàn[lower-alpha 2] | Châu lục | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Brommapojkarna | 2015 | Superettan | 8 | 0 | 4 | 3 | — | — | — | 12 | 3 | |||
2016 | Division 1 | 19 | 7 | 6 | 2 | — | — | — | 25 | 9 | ||||
2017 | Superettan | 29 | 13 | 1 | 0 | — | — | — | 30 | 13 | ||||
Tổng cộng | 56 | 20 | 11 | 5 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 67 | 25 | ||
Brighton & Hove Albion | 2017–18 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 0 | 0 | ||
2018–19 | Premier League | 0 | 0 | 4 | 0 | 1 | 0 | — | — | 5 | 0 | |||
2019–20 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 0 | 0 | |||
2020–21 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 1 | — | — | 3 | 1 | |||
Tổng cộng | 0 | 0 | 4 | 0 | 4 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 8 | 1 | ||
FC St. Pauli (mượn) | 2019–20 | 2. Bundesliga | 26 | 7 | 2 | 0 | — | — | — | 28 | 7 | |||
Swansea City (mượn) | 2020–21 | Championship | 11 | 0 | 1 | 1 | 0 | 0 | — | — | 12 | 1 | ||
Coventry City (mượn) | 2020–21 | Championship | 19 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | — | 19 | 3 | ||
Coventry City | 2021–22 | Championship | 45 | 17 | 2 | 1 | 0 | 0 | — | — | 47 | 18 | ||
2022–23 | Championship | 46 | 21 | 1 | 1 | 0 | 0 | — | 3[lower-alpha 3] | 0 | 50 | 22 | ||
Tổng cộng | 91 | 38 | 3 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 0 | 97 | 40 | ||
Sporting CP | 2023–24 | Primeira Liga | 33 | 29 | 6 | 6 | 2 | 3 | 9[lower-alpha 4] | 5 | — | 50 | 43 | |
2024–25 | Primeira Liga | 4 | 7 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0[lower-alpha 5] | 0 | 1[lower-alpha 6] | 0 | 5 | 7 | |
Tổng cộng | 37 | 36 | 6 | 6 | 2 | 3 | 9 | 5 | 1 | 0 | 55 | 50 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 240 | 104 | 26 | 13 | 6 | 4 | 9 | 5 | 4 | 0 | 285 | 126 |
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Thụy Điển | 2019 | 2 | 1 |
2020 | 0 | 0 | |
2021 | 2 | 0 | |
2022 | 7 | 1 | |
2023 | 8 | 3 | |
2024 | 3 | 4 | |
Tổng cộng | 22 | 9 |
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 11 tháng 1 năm 2019 | Sân vận động Quốc tế Khalifa, Doha, Qatar | Iceland | 1–1 | 2–2 | Giao hữu |
2 | 12 tháng 6 năm 2022 | Sân vận động Ullevaal, Oslo, Na Uy | Na Uy | 2–3 | 2–3 | UEFA Nations League 2022–23 (hạng đấu B) |
3 | 27 tháng 3 năm 2023 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Azerbaijan | 3–0 | 5–0 | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
4 | 9 tháng 9 năm 2023 | A. Le Coq Arena, Tallinn, Estonia | Estonia | 1–0 | 5–0 | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
5 | 16 tháng 10 năm 2023 | Sân vận động Nhà vua Baudouin, Bruxelles, Bỉ | Bỉ | 1–0 | 1–1[Ghi chú 1] | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
6 | 21 tháng 3 năm 2024 | Sân vận động D. Afonso Henriques, Guimarães, Bồ Đào Nha | Bồ Đào Nha | 1–4 | 2–5 | Giao hữu |
7 | 5 tháng 9 năm 2024 | Sân vận động Tofiq Bahramov, Baku, Azerbaijan | Azerbaijan | 3–0 | 3–1 | UEFA Nations League 2024–25 (hạng đấu C) |
8 | 8 tháng 9 năm 2024 | Strawberry Arena, Solna, Thụy Điển | Estonia | 1–0 | 3–0 | UEFA Nations League 2024–25 (hạng đấu C) |
9 | 3–0 |
IF Brommapojkarna
Sporting CP
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.