![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/3f/USS_Oklahoma_City_%2528CLG-5%2529_underway_1974.jpg/640px-USS_Oklahoma_City_%2528CLG-5%2529_underway_1974.jpg&w=640&q=50)
USS Oklahoma City (CLG-5)
From Wikipedia, the free encyclopedia
USS Oklahoma City (CL-91/CLG-5/CG-5) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Cleveland của Hải quân Hoa Kỳ được hoàn tất khi Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp kết thúc, và sau đó là một trong số sáu chiếc của lớp này được cải biến thành tàu tuần dương tên lửa điều khiển vào cuối những năm 1950. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, theo tên thành phố Oklahoma City thuộc tiểu bang Oklahoma. Được cho nhập biên chế vào cuối năm 1944, Oklahoma City đã phục vụ thuần túy tại Mặt trận Thái Bình Dương trong vai trò phòng không và bắn phá bờ biển cho đến khi chiến tranh kết thúc, và đã được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận. Giống như hầu hết các tàu chị em cùng lớp, nó xuất biên chế không lâu sau đó và được đưa về lực lượng dự bị.
![]() | |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | USS Oklahoma City |
Đặt tên theo | Oklahoma City, Oklahoma |
Xưởng đóng tàu | William Cramp and Sons Shipbuilding Co., Philadelphia, Pennsylvania |
Đặt lườn | 8 tháng 12 năm 1942 |
Hạ thủy | 20 tháng 2 năm 1944 |
Người đỡ đầu | Bà Anton H. Classen |
Nhập biên chế | 22 tháng 12 năm 1944 |
Tái biên chế | 7 tháng 9 năm 1960 |
Xuất biên chế |
|
Xếp lớp lại | CLG-5, 23 tháng 5 năm 1957 |
Tân trang | 1957 - 1960 |
Xóa đăng bạ | 15 tháng 12 năm 1979 |
Danh hiệu và phong tặng |
|
Số phận | Bị đánh chìm như một mục tiêu 1999 |
Đặc điểm khái quát(trước năm 1960) | |
Lớp tàu | lớp Cleveland |
Kiểu tàu | Tàu tuần dương hạng nhẹ |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 66 ft 4 in (20,22 m) |
Chiều cao | 113 ft (34 m) |
Mớn nước |
|
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 32,5 hải lý trên giờ (60,2 km/h; 37,4 mph) |
Tầm xa | 14.500 nmi (26.850 km; 16.690 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Máy bay mang theo | 4 × thủy phi cơ SOC Seagull |
Hệ thống phóng máy bay | 2 × máy phóng |
Đặc điểm khái quát(sau năm 1960) | |
Lớp tàu | Lớp tàu tuần dương Galveston |
Trọng tải choán nước | 15.205 tấn Anh (15.449 t) |
Chiều dài | 610 ft (190 m) |
Sườn ngang | 66 ft (20 m) |
Mớn nước | 25 ft (7,6 m) |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 32,5 hải lý trên giờ (60,2 km/h; 37,4 mph) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 1.395 |
Vũ khí |
|
Máy bay mang theo |
|
Sau gần mười năm bị bỏ không, Oklahoma City là một trong số ba chiếc lớp Cleveland được cải biến thành tàu tuần dương tên lửa điều khiển thuộc lớp Galveston. Việc cải biến bao gồm tháo dỡ toàn bộ vũ khí phía đuôi tàu để trang bị hệ thống tên lửa đất-đối-không Talos, đồng thời nó cũng cải biến để phục vụ như soái hạm, nên đã mở rộng cấu trúc thượng tầng phía trước và tháo dỡ hầu hết vũ khí phía mũi. Oklahoma City được cho tái biên chế trở lại vào năm 1960 với ký hiệu lườn mới CLG-5 (và từ năm 1975 là CG-5).
Trong vai trò mới, Oklahoma City hoạt động thuần túy tại khu vực Thái Bình Dương, và đã đóng một vai trò nổi bật trong Chiến tranh Việt Nam, nơi nó tiếp tục được tặng thưởng mười ba Ngôi sao Chiến trận khác. Một kế hoạch cải biến nó lần nữa, trang bị hai dàn phóng tám nòng loại tên lửa đất-đối-không Seasparrow cùng hai hệ thống vũ khí tầm gần Vulcan Phalanx đã được dự định nhưng không bao giờ được tiến hành. Khi Oklahoma City được cho xuất biên chế lần cuối cùng vào năm 1979, nó là chiếc cuối cùng trong lớp Cleveland còn hoạt động, cũng là chiếc có thời gian phục vụ lâu nhất trong lớp. Con tàu bị đánh chìm như một mục tiêu trong một cuộc tập trận vào năm 1999.