![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/c/c7/USS_Diachenko_%2528APD-123%2529_off_the_San_Francisco_Naval_Shipyard_on_31_January_1956_%25287575289%2529.jpg/640px-USS_Diachenko_%2528APD-123%2529_off_the_San_Francisco_Naval_Shipyard_on_31_January_1956_%25287575289%2529.jpg&w=640&q=50)
USS Diachenko (APD-123)
From Wikipedia, the free encyclopedia
USS Alex Diachenko / Diachenko (APD-123/LPR-123) là một tàu vận chuyển cao tốc lớp Crosley, nguyên được cải biến từ chiếc DE-690, một tàu hộ tống khu trục lớp Rudderow, và đã phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên hạ sĩ quan Alex Maxwell Diachenko (1919-1943), người từng phục vụ cùng tàu khu trục Eberle (DD-430), đã tử trận trong hoạt động chiếm giữ chiếc tàu vượt phong tỏa Đức Karin tại Nam Đại Tây Dương vào ngày 10 tháng 3, 1943 và được truy tặng Huân chương Ngôi sao Bạc.[1]
![]() Tàu vận chuyển cao tốc USS Diachenko (APD-123) ngoài khơi Xưởng hải quân San Francisco, tháng 1 năm 1956 | |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | USS Alex Diachenko / Diachenko |
Đặt tên theo | Alex M. Diachenko |
Xưởng đóng tàu | Bethlehem Steel Corp., Quincy, Massachusetts |
Đặt lườn | 18 tháng 7, 1944 |
Hạ thủy | 15 tháng 8, 1944 |
Người đỡ đầu | cô Mary Diachenko |
Nhập biên chế | 8 tháng 12, 1944 |
Tái biên chế | 1961 |
Xuất biên chế | |
Đổi tên | Diachenko, 1 tháng 3, 1945 |
Xếp lớp lại |
|
Xóa đăng bạ | 15 tháng 9, 1974 |
Danh hiệu và phong tặng |
|
Số phận | Bán để tháo dỡ, 1975 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp Crosley |
Kiểu tàu | Tàu vận chuyển cao tốc |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 36 ft 6 in (11,1 m) |
Mớn nước | 12 ft 7 in (4 m) (đầy tải) |
Công suất lắp đặt | 12.000 bhp (8.900 kW) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h) |
Tầm xa | 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h) |
Số tàu con và máy bay mang được | 4 × xuồng đổ bộ LCVP |
Quân số | 12 sĩ quan, 150 binh lính |
Thủy thủ đoàn tối đa | 15 sĩ quan, 168 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
|
Vũ khí |
|
Nó đã phục vụ cho đến khi Thế Chiến II kết thúc, rồi tiếp tục hoạt động trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên và sau đó, cho đến khi xuất biên chế vào năm 1959. Nó được huy động trở lại để phục vụ từ năm 1961 đến năm 1969, từng tham gia cuộc Chiến tranh Việt Nam và được xếp lại lớp như là chiếc LPR-123. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1975. Diachenko được tặng thưởng các danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân, Đơn vị Tuyên dương Anh dũng Hải quân cùng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, thêm sáu Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Triều Tiên, và thêm năm Ngôi sao Chiến trận nữa khi tham gia cuộc Chiến tranh Việt Nam.