USNS Mercy (T-AH-19)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tàu USNS Mercy (T-AH-19) thứ ba là con tàu đầu tiên trong lớp tàu bệnh viện Mercy của Hải quân Hoa Kỳ. Con tàu "chị em" với nó là USNS Comfort (T-AH-20). Tàu được đặt tên theo đức hạnh của lòng từ bi. Theo quy định của công ước Genève, USNS Mercy và thủy thủ đoàn không được mang theo bất kỳ thứ vũ khí tấn công nào, dù vậy vũ khí phòng vệ là được phép. Hành động tấn công Mercy được xem như tội ác chiến tranh.
USNS Mercy rời vịnh San Diego, tháng 5 năm 2008 | |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Xưởng đóng tàu | Công ty Đóng tàu và Thép Quốc gia Hoa Kỳ (National Steel and Shipbuilding Company) |
Đặt lườn | 12 tháng 6 năm 1974 (tên khi đó là SS Worth MA-299) |
Hạ thủy | 1 tháng 7 năm 1975 (tại San Diego, California) |
Hoạt động | 8 tháng 11 năm 1986 (cho Hải quân Mỹ) |
Cảng nhà | San Diego, California |
Tình trạng | đang hoạt động |
Đặc điểm khái quát | |
Trọng tải choán nước | 69.360 tấn |
Chiều dài | 894 feet (272,49 mét) |
Sườn ngang | 105 feet 7 inch (32,182 mét) |
Động cơ đẩy | hai nồi hơi, hai tuabin GE, một ống thông hơi, 24.500 mã lực (18,3MW) |
Tốc độ | 17,5 hải lý/giờ |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Thời gian kích hoạt | 5 ngày |
Mercy được dựng lên từ một tàu chở dầu cũ, SS Worth, bởi Công ty Đóng tàu và Thép Quốc gia Hoa Kỳ, tại San Diego, năm 1976. Khởi động từ tháng 7 năm 1984, con tàu đã được đổi tên và chuyển thành một tàu bệnh viện bởi cùng công ty sản xuất ra nó. USNS Mercy hạ thủy vào ngày 20 tháng 7 năm 1985, và được làm lễ vận hành vào ngày 8 tháng 11 năm 1986. Tàu có mũi trước nâng lên, một đuôi ngang, một mũi quả lê, một phòng trên boong rộng với một cây cầu phía trước, và một bãi đỗ trực thăng cùng một phòng kiểm soát không lưu. Các tàu bệnh viện lóp Mercy là những con tàu có chiều dài lớn thứ hai của Hạm đội Hải quân Mỹ, chỉ xếp sau các siêu tàu sân bay lớp Nimitz.[1]
Nhiệm vụ chính của Mercy là cung cấp các dịch vụ phẫu thuật và y tế di động sắc bén, linh hoạt và nhanh chóng để hỗ trợ Thủy quân lục chiến, Các lực lượng Đặc nhiệm Mặt đất/Trên không, các đơn vị Không quân và Lục quân triển khai trên bờ, các lực lượng đặc nhiệm đổ bộ đường biển và các lực lượng chiến đấu trên mặt nước. Thứ hai là cung cấp dịch vụ bệnh viện phẫu thuật di động sử dụng một cách phù hợp bởi các cơ quan chính phủ Mỹ trong trường hợp thiên tai, cứu trợ nhân đạo hoặc nhằm hạn chế sự cố chăm sóc nhân đạo cho những nhiệm vụ hoặc hoạt động quân sự trong thời bình.[2]
USNS Mercy, có cảng "quê nhà" tại San Diego, thường ở trong trạng thái hoạt động cắt giảm. Thủy thủ đoàn của tàu duy trì một phần là nhân viên của Trung tâm Y tế Hải quân San Diego cho đến khi được lệnh ra biển, khi đó họ có 5 ngày để kích hoạt đầy đủ con tàu thành một Cơ sở Điều trị Y tế NATO Role III, cấp cao nhất chỉ ở trên bờ dựa vào các cơ sở cố định bên ngoài phòng mổ.[2][3] Giống như hầu hết các tàu "USNS", những thủy thủ đến từ Bộ chỉ huy Vận tải Hải quân Hoa Kỳ chịu trách nhiệm cho việc định vị, di chuyển, và hầu hết các nhiệm vụ trên boong.[4] Tuy nhiên, "Cơ sở Điều trị Y tế", hay là bệnh viện trên tàu, được chỉ huy bởi đội trưởng của Quân đoàn Y tế Hải quân hay Quân đoàn Y tá Hải quân Hoa Kỳ.