Tổng giáo phận Công giáo thuộc khu vực Miền Trung - Việt Nam From Wikipedia, the free encyclopedia
Tổng giáo phận Huế (tiếng Latin: Archidioecesis Hueensis) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam.
Tổng giáo phận Huế Archidioecesis Hueensis | |
---|---|
Vị trí | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa giới | Thừa Thiên Huế, Quảng Trị |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Huế |
Thống kê | |
Khu vực | 9.773 km2 (3.773 dặm vuông Anh) |
Dân số - Địa bàn - Giáo dân | (tính đến 8-2019[1]) 1.915.375 [1] 63.070[1] (3.29%) |
Giáo hạt | 5 (2017) |
Giáo xứ | 85 (2017) |
Thông tin | |
Giáo phái | Công giáo Rôma |
Thành lập | 27 tháng 8 năm 1850 |
Toà giám mục | 6 Nguyễn Trường Tộ, Huế và 69 Phan Đình Phùng, Huế. |
Thánh bổn mạng | Đức Mẹ La Vang[1][2] |
Linh mục đoàn | 224 (8-2019)[1] |
Linh mục triều | 151 (8-2019)[1] |
Linh mục dòng | 73 (8-2019)[1] |
Tổng số Tu sĩ | 129 (dòng giáo hoàng) 1345 (dòng giáo phận)[1] |
Giáo lý viên | 1.001 (8-2019)[1] |
Lãnh đạo hiện tại | |
Giáo hoàng | Giáo hoàng Phanxicô |
Tổng giám mục | Giuse Nguyễn Chí Linh |
Tổng giám mục phó | phó Giuse Đặng Đức Ngân |
Giáo phận trực thuộc | Giáo phận Ban Mê Thuột Giáo phận Đà Nẵng Giáo phận Kon Tum Giáo phận Nha Trang Giáo phận Qui Nhơn |
Tổng Đại diện | Đức ông Antôn Dương Quỳnh |
Đại diện Giám mục | Đức ông Giuse Nguyễn Văn Chánh |
Chưởng ấn | Barnaba Trần Đình Phục |
Tổng giám mục danh dự | Stêphanô Nguyễn Như Thể Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng |
Bản đồ | |
Trang mạng | |
http://tonggiaophanhue.net/ |
Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích 9.773 km² (tương ứng các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), với 63.070 giáo dân (3.29% dân số), 182 linh mục và 85 giáo xứ[3].
Cai quản Tổng giáo phận hiện nay là Tổng giám mục đô thành Giuse Nguyễn Chí Linh (từ năm 2016) và Tổng giám mục phó Giuse Đặng Đức Ngân (từ năm 2023).
Giáo hoàng Alexanđê VII (1655-1667) ban Sắc chỉ Apostolatus Officium, ký ngày 29 tháng 7 năm 1658 bổ nhiệm linh mục François Pallu làm Giám mục hiệu tòa Heliopolis và linh mục Pierre Lambert de la Motte làm Giám mục hiệu tòa Berythe, đều là Giám mục "trong phần đất dân ngoại" ở Việt Nam - Đại Việt.
Hơn một năm sau, ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexandre VII lại công bố Sắc chỉ Super Cathedram phân chia "phần đất dân ngoại" ở Việt Nam - Đại Việt rõ ràng: Giám mục Pallu coi sóc giáo phận Đàng Ngoài và Giám mục Lambert coi sóc giáo phận Đàng Trong.
Giám mục Taberd, vị Giám mục chính thứ 10 Giáo phận Đàng Trong qua đời năm 1840 và Giám mục Etienne-Théodore Cuénot kế nhiệm triệu tập Hội nghị Gò Thị tháng 10 năm 1841 chuẩn bị cho việc xin Tòa Thánh chia tách và thành lập 2 giáo phận mới.
Đến tháng 9 năm 1844, Tòa Thánh đã quyết định thành lập hai Hạt Đại diện Tông Tòa mới: Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Trong và Hạt Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong.
Năm 1850, Tòa Thánh lại chia Đàng Trong thành bốn Hạt Đại diện Tông tòa: Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) vẫn do Giám mục Cuénot Thể coi sóc; Tây Đàng Trong (Sài Gòn) do Giám mục Lefèbvre đảm trách; Nam Đàng Trong (Nam Vang) do Giám mục Michel điều hành; Bắc Đàng Trong (Huế) do Giám mục Pellerin cai quản.
Ngày 28 tháng 8 năm 1850, Giáo hoàng Piô IX ban hành Sắc chỉ Postulat Apostolici, Hồng y A. Picchiani thừa lệnh ký tên, đóng dấu ấn Ngư phủ, chấp thuận thành lập giáo phận mới có danh xưng là Bắc Đàng Trong (Giáo phận Huế) với diện tích khoảng 12.227 km2. Ranh giới phía Đông là biển Đông. Phía Tây là biên giới Việt-Lào. Phía Bắc là dòng sông Gianh - Nguồn Son, có huyện địa đầu Bố Trạch. Phía Nam từ Thiên hạ đệ nhất hùng quan của đèo Hải Vân trở ra, thuộc huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên. Nhân sự gồm có 2 thừa sai Pháp Jean Paul Galy và Joseph Sohier, 12 linh mục người Việt, 2 chủng viện Di Loan và Kẻ Sen, 6 tu viện Mến Thánh Giá Nhu Lý, Di Loan, Dương Sơn, Phủ Cam, Kẻ Bàng, Mỹ Hương, 24.000 giáo dân. Tháng 12 năm 1856, Giám mục François-Marie Pellerin rời Huế vào Đà Nẵng và lên tàu La Capricieuse của Hải quân Pháp đi Hương Cảng rồi đi Pháp. Tháng 11 năm 1860, giám mục này đi Penang và bàn giao công việc điều hành Hạt đại diện Tông Tòa trong tay Giám mục phó Joseph-Hyacinthe Sohier (tấn phong giám mục ngày 17 tháng 8 năm 1851 tại Di Loan).
Năm 1924, Hạt Đại diện Tông tòa Huế có 44 thừa sai, 83 linh mục, 35 sư huynh, 500 nữ tu, 68.000 giáo dân.
Năm 1925, Giáo hoàng Piô XI lập Tòa Khâm Sứ Đông Dương. Vị khâm sứ đầu tiên là Giám mục Constantino Ajuti, người Ý, được bổ nhiệm ngày 25 tháng 5 năm 1925. Quan Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đã đề nghị và giúp đỡ xây cất Tòa Khâm Sứ tại Huế, cạnh nhà thờ chính tòa Phủ Cam và khánh thành năm 1925. Năm 1951, Tòa Khâm Sứ được dời ra Hà Nội. Hiện nay, tòa nhà ở Huế là trụ sở của cộng đoàn Mến Thánh Giá Huế.
Năm 1941, Công đồng Đông Dương đã họp tại Toà khâm mạng Phủ Cam, Giáo phận Huế lớn mạnh với số giáo dân 74.904 người, 25 thừa sai Paris, 102 linh mục người Việt Nam.
Năm 1950, Hạt Đại diện Tông Tòa Huế kỷ niệm 100 năm thành lập Địa phận, số giáo dân là 78.500.
Ngày 24 tháng 11 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII ra Tông Thư "Venerabilium Nostrorum" thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam với 3 Giáo tỉnh: Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ngày 8 tháng 12 năm 1960, tông thư này chính thức công bố tại Việt Nam. Cùng với việc nâng cấp Hạt Đại diện Tông Tòa Huế thành Tổng giáo phận, Giáo hoàng còn ra quyết định bổ nhiệm Giám mục Hạt Đại diện Tông tòa Vĩnh Long Phêrô Martinô Ngô Đình Thục làm Tổng Giám mục đô thành Tiên khởi, Trưởng giáo tỉnh Huế. Tính đến năm 1962, Tổng Giáo phận Huế có 162 linh mục (112 linh mục triều, 50 linh mục dòng) và 100.225 tín hữu. Số giáo xứ có linh mục là 85 và giáo họ không có linh mục là 264.
Sau khi Tổng giám mục Ngô Đình Thục không thể trở về Việt Nam, Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Cần Thơ Philípphê Nguyễn Kim Điền với hàm Tổng giám mục, Giám quản Tông Tòa Tổng giáo phận Huế, từ năm 1964. Năm 1968, Tòa Thánh chính thức bổ nhiệm Tổng giám mục Điền làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế. Năm 1975, Tổng giám mục Điền tấn phong chức giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể làm Tổng giám mục phó. Tổng giám mục phó đảm nhận chức vụ đến năm 1983 thì xin từ nhiệm. Năm 1984, có thông tin cho rằng Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền tấn phong giám mục phụ tá Giacôbê Lê Văn Mẫn, nhưng việc tấn phong này chưa được thông báo lên Tòa Thánh.
Với sự qua đời của Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền năm 1988, Tòa Thánh bổ nhiệm Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng giám mục Hà Nội làm Giám quản Tông Tòa. Hồng y Căn qua đời năm 1990, do đó, từ năm 1990 đến năm 1994, Tổng giáo phận Huế được đặt dưới sự quản lý của Giám quản Giáo phận Lê Văn Mẫn. Năm 1994, nguyên Tổng giám mục phó Nguyễn Như Thể được Tòa Thánh cử làm Giám quản Tông Tòa và chính thức được đặt làm Tổng giám mục Tổng giáo phận vào năm 1998. Dưới thời Tổng giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể, Tổng giáo phận Huế còn có giám mục phụ tá Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, từ năm 2005.
Tháng 5 năm 2006, khu vực Nam Quảng Bình phần hữu ngạn sông Gianh – sông Son được chuyển giao cho Giáo phận Vinh quản lý, hiện nay khu vực này thuộc Giáo phận Hà Tĩnh từ năm 2018. Địa giới của Tổng giáo phận Huế chỉ còn trong hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cho đến ngày nay.
Năm 2012, Tòa Thánh đồng thuận cho Tổng giám mục Nguyễn Như Thể hồi hưu, và chọn giám mục phụ tá Lê Văn Hồng làm Tổng giám mục Huế. Ông đảm nhận chức vụ này cho đến năm 2016, khi Tòa Thánh chấp thuận đơn từ nhiệm của Tổng giám mục Hồng và bổ nhiệm giám mục giáo phận Thanh Hóa Giuse Nguyễn Chí Linh làm Tổng giám mục kế nhiệm. Tháng 9 năm 2023, Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Đà Nẵng Giuse Đặng Đức Ngân làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Huế.
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, tên chính thức là Nhà thờ Trái tim Cực sạch Đức Mẹ là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận[4].
Địa giới giáo phận: phía bắc giáp giáo phận Hà Tĩnh, phía nam giáp giáo phận Đà Nẵng, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet (Lào), phía tây nam giáp Hạt Đại diện Tông tòa Pakse (Lào).
Tổng giáo phận Huế có 5 giáo hạt, 99 giáo xứ.
STT | Tên | Thời gian quản nhiệm | Ghi chú |
---|---|---|---|
Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Đàng Trong | |||
1 † | François-Marie Pellerin Phan | 1850-1862 | |
2 † | Joseph-Hyacinthe Sohier Bình | 1850-1876 | |
3 † | Martin-Jean Pontvianne Phong | 1877-1879 | |
4 † | Marie-Antoine Caspar Lộc | 1880-1907 | |
5 † | Eugène-Marie Allys Lý | 1908-1924 | |
Hạt Đại diện Tông tòa Huế | |||
5 † | Eugène-Marie Allys Lý | 1924-1931 | |
6 † | Alexandre Paul Marie Chabanon Giáo | 1930-1936 | |
7 † | François Arsène Jean Marie Eugène Lemasle Lễ | 1937-1946 | |
8 † | Jean-Baptiste Urrutia Thi | 1948-1960 | |
Tổng Giáo phận Huế | |||
9 † | Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục | 1960-1968 | |
10 † | Philípphê Nguyễn Kim Điền | 1964-1968 1968-1988 |
|
11 | Stêphanô Nguyễn Như Thể | phó 1975-1983 | Tổng giám mục phó |
12 † | Giuse Maria Trịnh Văn Căn | 1988-1990 | Hồng y, Giám quản Tông tòa |
13 † | Giacôbê Lê Văn Mẫn | 1990-1994 | Thực tế điều hành Tổng giáo phận từ năm 1988, chính thức được công nhận là Giám quản Tổng giáo phận từ năm 1990 với tư cách được công bố là Linh mục Tổng Đại diện |
(11) | Stêphanô Nguyễn Như Thể | 1994-1998 1998-2012 |
Giám quản Tông tòa Tổng giám mục |
14 | Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng | 2005-2012 2012-2016 |
|
15 | Giuse Nguyễn Chí Linh | 2016-nay | |
16 | Giuse Đặng Đức Ngân | phó 2023-nay | Tổng giám mục phó |
Ghi chú:
Theo Cẩm nang Năm Thánh 2020 do Tổng giáo phận Huế phát hành, những giám mục người Việt Nam sau đây có nguồn gốc từ Tổng giáo phận Huế:[5]
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.