Trận Warszawa (1920)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Warszawa, thỉnh thoảng gọi là Phép màu trên sông Wisla[3], là trận đánh quyết định của cuộc Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921). Cuộc chiến này mở đầu không lâu sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc năm 1918 và kéo dài cho đến khi Hòa ước Riga đánh dấu sự chấm dứt thù địch giữa Ba Lan và Nga năm 1921.
Trận Warszawa | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921) | |||||||
![]() Lính Ba Lan trưng bày cờ chiến đấu của Liên Xô bị bắt sau trận chiến | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
![]() |
![]() | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() | ||||||
Lực lượng | |||||||
113.000–123.000 người[1] | 104.000-140.000 người[1] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
4.500 chết 22.000 bị thương 10.000 mất tích[1] |
15.000-25.000 chết không rõ số bị thương 65.000–66.000 bị bắt 30.000–35.000 bị giam giữ ở Đông Phổ[1][2] |
Trận đánh diễn ra từ ngày 12 tháng 8 cho đến ngày 25 tháng 8 năm 1920 khi Hồng quân dưới sự chỉ huy của Mikhail Tukhachevsky tiến đánh thủ đô Warszawa của Ba Lan và đến gần Pháo đài Modlin. Ngày 16 tháng 8, quân Ba Lan dưới quyền Józef Piłsudski phản công từ hướng Nam, bẻ gãy cuộc tấn công của quân Nga, buộc quân Nga phải tổ chức triệt thoái trong hỗn loạn về hướng Đông và phía sau sông Neman. Ước tính tổn thất của Nga là 1 vạn người chết, 500 người mất tích, 3 vạn người bị thương và 66 nghìn người bị bắt làm tù binh, trong khi thiệt hại của Ba Lan là khoảng 4.500 người chết, 10.000 người mất tích, và 22.000 người bị thương.
Trước khi quân Ba Lan thắng trận ở sông Wisla, cả đảng Bolshevik và phần đông các chuyên gia ngoại quốc đã đều nhìn nhận Ba Lan đã cận kề thất bại. Chiến thắng vẻ vang và bất ngờ của Ba Lan đã hủy hoại quân đội Bolshevik. Theo lời của Lãnh tụ Vladimir Ilyich Lenin, người Bolshevik "hứng chịu một bị thất bại to lớn".[4] Trong những tháng sau, vài thắng lợi dồn dập của quân Ba Lan đã cứu vãn nền độc lập của Ba Lan và dẫn tới Hòa ước Riga với nước Nga và Ukraina dưới chế độ Xô viết cuối năm đó, đảm bảo biên giới phía Đông của Nhà nước Ba Lan trong vòng 20 năm sau đó.