Nhà Triều Tiên
Triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Triều Tiên / From Wikipedia, the free encyclopedia
Nhà Triều Tiên[4] (Tiếng Hàn: 조선왕조; Hanja: 朝鮮王朝; Romaja: Joseon wangjo; McCune–Reischauer: Chosŏn wangjŏ; Hán-Việt: Triều Tiên vương triều; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 Dyǒw syéon hoặc 됴ᇢ〯션〯 Dyǒw syěon) hay còn gọi là Triều Tiên Lý Thị (Tiếng Hàn: 조선리씨; Hanja: 朝鮮李氏; Romaja: Joseon Lissi; McCune–Reischauer: Chosŏn Lissi)[5][6], Bắc Triều Tiên gọi là Triều Tiên Phong kiến Vương triều (Tiếng Hàn: 조선봉건왕조; Hanja: 朝鮮封建王朝; Romaja: Joseon bonggeon wangjo; McCune–Reischauer: Chosŏn bonggŏn wangjŏ[7]) là một triều đại được thành lập bởi Triều Tiên Thái Tổ Lý Thành Quế và tồn tại hơn 5 thế kỷ. Triều đại này được thành lập sau khi Lý Thành Quế lật đổ nhà Cao Ly tại Khai Thành. Khi đó, tên của vương quốc cũng được đặt lại theo tên của vương triều và kinh đô được dời về Hán Thành (Seoul ngày nay) và các đường biên giới phía cực bắc của vương quốc được mở rộng đến các đường biên giới tự nhiên tại sông Áp Lục và sông Đồ Môn (sau cuộc chinh phục người Nữ Chân). Nhà Triều Tiên là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Triều Tiên. Đây cũng là vương triều theo Nho giáo tồn tại lâu nhất trên thế giới.
Đại Triều Tiên Quốc
Triều Tiên Vương triều |
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||
1392–1897 | |||||||||
![]() Lãnh thổ Triều Tiên sau cuộc chinh phục Nữ Chân của vua Thế Tông | |||||||||
Tổng quan | |||||||||
Thủ đô | Hán Thành[lower-alpha 1] | ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Triều Tiên, Văn ngôn | ||||||||
Văn tự thông dụng | Chữ Hán, Hangul | ||||||||
Tôn giáo chính | Nho giáo Chu Tử | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||
Vua | |||||||||
Thái Tổ (đầu tiên) | |||||||||
• 1418–1450 | Thế Tông | ||||||||
• 1776–1800 | Chính Tổ | ||||||||
Cao Tông (cuối cùng)1 | |||||||||
Lãnh nghị chính (Tể tướng) | |||||||||
• 1431–1449 | Hoàng Hì | ||||||||
• 1466–1472 | Hàn Minh Khoái | ||||||||
• 1592–1598 | Liễu Thành Long | ||||||||
• 1793–1801 | Thái Tế Cung | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Thời kỳ cận đại | ||||||||
• Cuộc đảo chính năm 1388 | 20 tháng 5 năm 1388 | ||||||||
• Sáng lập bởi Lý Thành Quế | 5 tháng 8 năm 1392 17 tháng 7 năm Nhâm Thân 1392 | ||||||||
9 tháng 10 năm 1446 | |||||||||
1592–1598 | |||||||||
1636–1637 | |||||||||
27 tháng 2 năm 1876 | |||||||||
12 tháng 10 năm 1897 1897 | |||||||||
Dân số | |||||||||
• 1500 [1] | khoảng 6.510.000 người | ||||||||
• 1753 [1] | khoảng 18.660.000 người | ||||||||
Kinh tế | |||||||||
Đơn vị tiền tệ | Văn (mun), Lạng (yang) | ||||||||
Mã ISO 3166 | KP | ||||||||
| |||||||||
1Trở thành Đế quốc Đại Hàn vào năm 1897 |
Tên Triều Tiên | |
Hangul | |
---|---|
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Joseon |
McCune–Reischauer | Chosŏn |
Hán-Việt | Đại Triều Tiên Quốc |
IPA | [tɕo.sʌn] |
Tên Bắc Triều Tiên | |
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Joseon Bonggeon Wangjo |
McCune–Reischauer | Chosŏn Bonggŏnwangjo |
Tên chính thức | |
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Daejoseonguk |
McCune–Reischauer | Taechosŏnguk |
IPA | [tɛ.tɕo.sʌn.ɡuk̚] |
Trong thời kỳ trị vì của mình, nhà Triều Tiên củng cố sự thống trị của mình trên toàn lãnh thổ Triều Tiên, đề cao Nho học, du nhập văn hóa Trung Hoa và hạn chế Phật giáo, có lúc còn bức hại tôn giáo này. Nhà Triều Tiên bước vào thời kỳ phát triển huy hoàng nhất của nền văn hóa cổ điển Triều Tiên, về thương mại, khoa học, văn học và kỹ thuật [cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên, nhà Triều Tiên nhanh chóng suy yếu vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17 sau cuộc tấn công xâm lược của Nhật Bản và sau đó là nhà Mãn Thanh, điều này biến Triều Tiên thành một nước phiên thuộc của đế quốc Đại Thanh và dẫn tới chính sách bế quan tỏa cảng, cô lập với thế giới bên ngoài. Sau khi trở thành một thuộc quốc của triều đình Mãn Thanh, nhà Triều Tiên có được một thời kỳ yên bình kéo dài gần 2 thế kỷ.
Tuy nhiên, mọi sự hồi phục mà vương quốc Triều Tiên có được trong thời gian hòa bình đã sớm tan biến vào giữa thế kỷ 19. Nhà Triều Tiên nhanh chóng phải đối mặt với những khó khăn ngày càng chồng chất: mâu thuẫn trong nước, tranh chấp quyền lực, áp lực quốc tế, khởi nghĩa và thế là nhà Triều Tiên suy sụp nhanh chóng vào cuối thế kỷ thứ 19. Năm 1895, nhà Triều Tiên buộc phải ký một hiệp định quy định việc độc lập hoàn toàn khỏi triều đình Mãn Thanh sau khi Nhật Bản chiến thắng trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, buộc Trung Quốc phải ký Hiệp ước Shimonoseki. Từ năm 1897 đến 1910, Triều Tiên mang quốc hiệu mới: Đại Hàn Đế quốc nhằm minh chứng cho nền độc lập của mình, rằng từ nay Triều Tiên không còn phụ thuộc vào nhà Thanh nữa. Tuy nhiên, vua Triều Tiên thực ra chỉ còn là bù nhìn của quân Nhật. Nhà Triều Tiên nhanh chóng cáo chung vào năm 1910 khi đế quốc Nhật Bản buộc người Triều Tiên ký Điều ước sáp nhập Triều Tiên vào Nhật Bản và biến Triều Tiên thành một lãnh thổ thuộc địa của Nhật Bản.
Nhà Triều Tiên đã để lại một di sản khổng lồ cho nền văn hóa Triều Tiên: nhiều nghi thức xã giao, phong tục tập quán, các quan điểm về mặt xã hội lưu truyền đến các thế hệ con cháu ngày nay, và thậm chí ngôn ngữ Triều Tiên đương đại cùng những phương ngữ của nó bắt nguồn từ những suy nghĩ và quan điểm truyền thống hình thành từ thời nhà Triều Tiên. Ngày nay, tên gọi "bán đảo Triều Tiên" và quốc hiệu Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên lấy chính là kế thừa từ triều đại này.