![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/c/cf/SesshuToyo.jpg/640px-SesshuToyo.jpg&w=640&q=50)
Tranh thủy mặc
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tranh thủy mặc (tiếng Trung giản thể:: 水墨画; phồn thể: 水墨畫; pinyin: shuǐmòhuà/Thủy mặc họa; tiếng Nhật: 水墨画, suiboku-ga; tiếng Hàn: 수묵화, sumukhwa) hoặc sumi-e (Japanese: 墨絵) là một loại tranh hội họa khởi nguồn từ Trung Quốc. Theo lối chiết tự thì "Thủy" (水) là nước, còn "mặc" (墨) là mực nên nôm na thì chất liệu tranh thủy mặc chủ yếu chỉ là mực mài ra, pha với nước (mực pha nước), rồi dùng bút lông vẽ trên giấy hoặc lụa nên về sắc thái chỉ có hai màu trắng đen. Tranh thủy mặc là loại hình phát triển cùng với nghệ thuật thư pháp Trung Hoa. Loại hình này bắt đầu xuất hiện vào thời nhà Đường (618-907) và tạo nên sự ấn tượng, khác biệt so với các loại hình nghệ thuật vẽ trước đó. Những đặc điểm mới của tranh thủy mặc so với các loại hình nghệ thuât trước đó là chú trọng vào sắc đen hơn là pha trộn các màu sắc với nhau, tập trung mạnh vào nét vẽ và bản chất, tinh thần của vật thể, cảnh vật hơn là mô tả trực tiếp, bắt chước. Tranh thủy mặc phát triển mạnh mẽ tới đỉnh cao dưới triều nhà Tống (960-1279) tại Trung Quốc và được truyền sang Nhật Bản bởi các thiền sư thuộc Thiền Tông vào thế kỷ thứ 14.
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/c/cf/SesshuToyo.jpg/640px-SesshuToyo.jpg)
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/2e/BEN-DO.jpg/640px-BEN-DO.jpg)
Về sau, tranh thủy mặc có thể kết hợp giữa mực và màu nước, dầu và có thể có thêm ít màu sắc.