Tiếng Thượng Hải
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tiếng Thượng Hải (上海話; Thượng Hải thoại; bính âm: shànghǎihuà; tiếng Thượng Hải: zanhererau /zɑ̃.'he.ɦɛ.ɦʊ ˨˦˨˩/), đôi khi được gọi là phương ngữ Thượng Hải, là một phương ngữ tiếng Ngô nói ở thành phố Thượng Hải và khu vực xung quanh. Trong tiếng Ngô, nó đại diện cho các phương ngữ phía bắc. Với mười bốn triệu người nói, đây là dạng thức phổ biến nhất trong tiếng Ngô. Nó đóng vai trò là lingua franca của toàn bộ khu vực Châu thổ sông Dương Tử.
Xin hãy đóng góp cho bài viết này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. |
Thông tin Nhanh Phát âm, Sử dụng tại ...
Tiếng Thượng Hải | |
---|---|
上海話 / 上海话 Zaonhegho 上海閒話 / 上海闲话 Zaonhe-ghegho 滬語 / 沪语 Wu nyu | |
Phát âm | [z̥ɑ̃̀héɦɛ̀ɦò], [ɦùɲý] |
Sử dụng tại | Trung Quốc, Trung Hoa hải ngoại |
Khu vực | Thượng Hải và khu vực Đồng bằng Trường Giang |
Tổng số người nói | 10–14 triệu |
Dân tộc | người Thượng Hải |
Phân loại | Hán-Tạng
|
Mã ngôn ngữ | |
Glottolog | shan1293 Shanghainese[1] |
Linguasphere | 79-AAA-dbb > |
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA. |
Đóng
Thông tin Nhanh Giản thể, Phồn thể ...
Tiếng Thượng Hải | |||||||||||
Giản thể | 上海话 | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phồn thể | 上海話 | ||||||||||
Tiếng Thượng Hải La tinh hóa | Zaanhehho [z̥ɑ̃̀héɦò] | ||||||||||
Nghĩa đen | Tiếng Thượng Hải | ||||||||||
| |||||||||||
Tiếng Thượng Hải | |||||||||||
Giản thể | 上海闲话 | ||||||||||
Phồn thể | 上海閒話 | ||||||||||
Tiếng Thượng Hải La tinh hóa | Zaanhe Hhehho [z̥ɑ̃̀hé ɦɛ̀ɦò] | ||||||||||
Nghĩa đen | Thượng Hải thoại | ||||||||||
| |||||||||||
Tiếng Hồ | |||||||||||
Giản thể | 沪语 | ||||||||||
Phồn thể | 滬語 | ||||||||||
Tiếng Thượng Hải La tinh hóa | [ɦuɲy] | ||||||||||
Nghĩa đen | Tiếng (Thượng Hải) Hồ | ||||||||||
| |||||||||||
Đóng
Tiếng Thượng Hải cũng là một ngôn ngữ được viết và xác định rõ ràng, chỉ có hai thanh điệu (cao và thấp), không giống như Quan thoại (có bốn thanh điệu), tiếng Quảng Đông (có chín thanh điệu), tiếng Mân Nam (có bảy thanh điệu) và tiếng Triều Châu (có tám thanh điệu)[2].