Sứ đồ Phaolô
Đại Lễ mừng Ngài là Sứ Đồ không thuộc 12 Tông Đồ còn lại. Ngài còn được gọi là Sứ Đồ của Dân Ngoại, lễ này được cử hành trọng thể vào ngày 29 tháng 6 cùng với Thánh Phêrô hằng năm / From Wikipedia, the free encyclopedia
Phaolô thành Tarsus (còn gọi là Sao-lơ hoặc Saolê theo chữ Saul, Paulus, Thánh Phaolô Tông đồ, Thánh Phaolô hoặc Sứ đồ Phaolô, Thánh Bảo-lộc hay Sao-lộc (tiếng Latinh: Paulus; tiếng Hy Lạp: Παῦλος, chuyển tự Paulos; tiếng Copt: ⲡⲁⲩⲗⲟⲥ; khoảng 5 CN – khoảng 64 hay 67 CN ),[2][4] là "Sứ đồ của dân ngoại".[5] Cùng các sứ đồ Phêrô, Gioan, Giacôbê, và Máccô,ông được xem một trong những cột trụ của Hội Thánh Kitô giáo tiên khởi, và là một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển Kitô giáo thời kỳ sơ khai.[6]
Phaolô xứ Tarsus | |
---|---|
Sứ đồ của dân ngoại | |
Sinh | khoảng 5 CN[1] ở Tarsus, Cilicia, Đế chế La Mã (Ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ) |
Mất | khoảng 64 hay 67 CN[2][3] Roma, Ý, Đế chế La Mã[2][4] |
Tôn kính | Kitô giáo |
Đền chính | Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô |
Lễ kính | 25 tháng 1 (Phaolô cải đạo) 10 tháng 2 (Lễ đắm tàu của Phaolô tại Malta) 29 tháng 6 (trùng lễ kính thánh Phêrô) 18 tháng 11 (Lễ cung hiến vương cung thánh đường Thánh Phêrô và Phaolô) 2008 (Năm Thánh Phaolô) |
Biểu trưng | Kiếm |
Không giống Mười hai Sứ đồ, không có tài liệu nào cho rằng Phaolô từng gặp Giêsu trước khi ông bị đóng đinh trên thập tự giá.[7] Theo ký thuật của Tân Ước, Phaolô là người Do Thái chịu ảnh hưởng văn minh Hy Lạp và là công dân của Đế quốc La Mã, đến từ thành Tarsus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Phaolô là người kiên trì săn đuổi những Kitô hữu ban đầu (hầu hết là người Do Thái) để bách hại họ, cho đến khi chính ông trải qua kinh nghiệm lạ lùng trên đường đến thành Damascus. Trong một khải tượng, ông gặp Giêsu khi mắt ông đang bị mù trong một thời gian ngắn. Trải nghiệm này đã đem ông đến với đức tin Kitô giáo, chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Messiah và là Con Thiên Chúa.[8] Phaolô khẳng định rằng ông nhận lãnh Phúc âm không phải từ con người, nhưng từ chính "sự mặc khải của Chúa Giêsu."[9]
Sau khi chịu lễ Thanh Tẩy, Phaolô đến ngụ cư ở xứ Arabia (có lẽ là Nabataea) cho đến khi ông gia nhập cộng đồng Kitô hữu còn non trẻ ở Jerusalem, và ở lại với Phêrô (hoặc Phi-e-rơ) trong mười lăm ngày.[10] Qua những thư tín gởi các cộng đồng Kitô giáo, Phaolô trình bày mạch lạc quan điểm của ông về mối quan hệ giữa tín hữu Kitô giáo người Do Thái với tín hữu Kitô giáo không phải người Do Thái, và giữa Moses với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Phaolô được tôn kính như một vị Thánh trong nhiều nhánh Công giáo khác nhau như Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Anh giáo và một số người thuộc Giáo hội Luther. Ông được xem là thánh quan thầy của Malta và thành phố Luân Đôn, một vài thành phố khác được đặt tên để vinh danh ông như São Paulo, Brasil và Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ. Đạo Mormon xem ông là nhà tiên tri.
Các thư tín của Phaolô hình thành phần nền tảng của Tân Ước (được xem là nguồn quan trọng cho nền thần học của Hội Thánh ban đầu) cùng những nỗ lực của ông nhằm truyền bá Kitô giáo đến nhiều dân tộc, là mục tiêu của nhiều khuynh hướng luận giải khác nhau. Kitô giáo truyền thống xem các thư tín của Phaolô là một phần của kinh điển Tân Ước và xác định rõ ràng rằng tư tưởng của Phaolô là hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giêsu và các sứ đồ khác.
Những người ủng hộ thần học giao ước tin rằng Hội Thánh đã thay thế dân tộc Do Thái trong vị trí Tuyển dân của Thiên Chúa, khơi mở những tranh luận hiện vẫn tiếp diễn xem xác định rõ ràng này có phải bắt nguồn từ ý tưởng của Phaolô khi ông giải thích Jeremiah 31: 31[11] và Ezekiel 36: 27[12], sau đó xác định rõ ràng này được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Kitô giáo.
Ảnh hưởng của Phaolô trong tư tưởng Kitô giáo được xem là quan trọng hơn bất cứ tác giả Tân Ước nào, xuyên suốt hệ tư tưởng Kitô giáo cho đến ngày nay: từ Thánh Augustinô thành Hippo đến những bất đồng giữa Gottschalk và Hincmar thành Reims; giữa tư tưởng Thomas Aquinô và học thuyết của Molina; giữa Martin Luther, John Calvin và Arminius; giữa học thuyết của Jansen và các nhà thần học Dòng Tên, đến các tác phẩm của nhà thần học Karl Barth, đặc biệt là luận giải của Barth về một trong những bức thư tín của Phaolô.