Tưởng Giới Thạch
Nhà chính trị và nhà quân sự trong lịch sử Trung Quốc cận đại (1887–1975) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Tưởng Trung Chính (giản thể: 蒋中正; phồn thể: 蔣中正; 31 tháng 10 năm 1887 – 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ: Giới Thạch (介石) nên còn gọi là Tưởng Giới Thạch, tên khai sinh: Thụy Nguyên (瑞元)[1]:1 là một chính khách, nhà cách mạng và nhà lãnh đạo quân sự người Trung Quốc, người lãnh đạo của Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1928 đến năm 1975, đầu tiên ở Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949 và sau đó ở Đài Loan cho đến khi ông qua đời.
Tưởng Giới Thạch GCB, gcYC, ร.ม.ภ, GCS, CCLH, LOM, DSM | |
---|---|
蔣中正 蔣介石 | |
Tưởng Giới Thạch vào năm 1943 | |
Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc | |
Nhiệm kỳ 20 tháng 5 năm 1948 – 21 tháng 1 năm 1949 246 ngày | |
Phó Tổng thống | Lý Tông Nhân |
Viện trưởng Hành chính viện | Ông Văn Hạo Tôn Khoa |
Tiền nhiệm | đầu tiên |
Kế nhiệm | Lý Tông Nhân (Quyền) |
Nhiệm kỳ 1 tháng 3 năm 1950 – 5 tháng 4 năm 1975 25 năm, 35 ngày | |
Phó Tổng thống | Danh sách
|
Viện trưởng Hành chính viện | Danh sách
Diêm Tích Sơn Trần Thành Du Hồng Quân Trần Thành (lần 2) Vương Vân Ngũ (quyền) Nghiêm Gia Cam Tưởng Kinh Quốc |
Tiền nhiệm | Lý Tông Nhân (quyền) |
Kế nhiệm | Nghiêm Gia Cam |
Chủ tịch Ủy ban Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc | |
Nhiệm kỳ 10 tháng 10 năm 1928 – 15 tháng 12 năm 1931 3 năm, 66 ngày | |
Tiền nhiệm | Đàm Diên Khải |
Kế nhiệm | Lâm Sâm |
Nhiệm kỳ 10 tháng 10 năm 1943 – 20 tháng 5 năm 1948 4 năm, 223 ngày | |
Tiền nhiệm | Lâm Sâm |
Kế nhiệm | Bãi bỏ (Đổi sang Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc) |
Ủy viên trưởng Ủy ban Quân sự Chính phủ Quốc dân | |
Nhiệm kỳ 6 tháng 3 năm 1932 – 31 tháng 5 năm 1946 14 năm, 86 ngày | |
Chủ tịch Chính phủ Quốc dân | Lâm Sâm |
Tiền nhiệm | Đầu tiên |
Kế nhiệm | Bãi bỏ |
Viện trưởng Hành chính viện Chính phủ Quốc dân | |
Nhiệm kỳ 24 tháng 11 năm 1930 – 15 tháng 12 năm 1931 1 năm, 325 ngày | |
Tiền nhiệm | Đàm Diên Khải |
Kế nhiệm | Tôn Khoa |
Nhiệm kỳ 16 tháng 12 năm 1935 – 1 tháng 1 năm 1938 2 năm, 16 ngày | |
Tiền nhiệm | Uông Triệu Minh |
Kế nhiệm | Khổng Tường Hy |
Nhiệm kỳ 11 tháng 12 năm 1939 – 4 tháng 6 năm 1945 5 năm, 175 ngày | |
Tiền nhiệm | Khổng Tường Hy |
Kế nhiệm | Tống Tử Văn |
Nhiệm kỳ 1 tháng 3 năm 1947 – 23 tháng 4 năm 1947 (quyền) 53 ngày | |
Tiền nhiệm | Tống Tử Văn |
Kế nhiệm | Trương Quần |
Tổng tài và Lãnh tụ Quốc dân Đảng Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ 1 tháng 4 năm 1938 – 5 tháng 4 năm 1975 37 năm, 4 ngày | |
Phó chức | Trần Thành (1957-1965) |
Tiền nhiệm | Hồ Hán Dân |
Kế nhiệm | bảo lưu vĩnh cửu Tưởng Kinh Quốc (Chủ tịch Ủy ban Trung ương) |
Tổng tư lệnh Quốc dân Cách mệnh Quân | |
Nhiệm kỳ 5 tháng 6 năm 1926 – 20 tháng 5 năm 1948 21 năm, 350 ngày | |
Tiền nhiệm | đầu tiên |
Kế nhiệm | Do Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc kiêm nhiệm thống soái tam quân |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Tưởng Thụy Nguyên (1887-10-31)31 tháng 10 năm 1887 trấn Khê Khẩu, huyện Phụng Hóa, phủ Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Đại Thanh |
Mất | 5 tháng 4 năm 1975(1975-04-05) (87 tuổi) khu Sỹ Lâm, thành phố Đài Bắc, Trung Hoa Dân Quốc |
Nơi an nghỉ | Lăng tẩm Từ Hồ, Đào Viên, Trung Hoa Dân Quốc |
Quốc tịch | Trung Hoa Dân Quốc |
Đảng chính trị | Quốc dân Đảng Trung Quốc |
Phối ngẫu | Mao Phúc Mai (cưới 1901–1921) Diêu Dã Thành (cưới 1911–1921) Trần Khiết Như (cưới 1921–1927) |
Con cái | Tưởng Kinh Quốc Tưởng Vĩ Quốc Tưởng Giao Quang |
Giáo dục | Trường Lục quân Bảo Định |
Alma mater | Trường Shinbu Tokyo, Trung đoàn 13 Binh đoàn Pháo dã chiến Takata |
Nghề nghiệp | Nhà chính trị, nhà quân sự |
Tặng thưởng | Tĩnh sư huân đao Quốc Quang huân chương Thanh Thiên Bạch Nhật huân chương Thái Ngọc đại huân chương Bảo Đỉnh huân chương hạng nhất |
Tôn giáo | Phật giáo (1887-1930) Tin Lành (1930-1975) |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Biệt danh | "Tổng thống lĩnh" |
Thuộc | Đài Loan |
Phục vụ | Lục quân Trung Hoa Dân Quốc |
Năm tại ngũ | 1911–1975 |
Cấp bậc | Tổng thống lĩnh (特級上將) |
Tham chiến | Cách mạng Tân Hợi, Bắc phạt, Nội chiến Trung Quốc, Chiến tranh Trung-Nhật |
Sinh ra ở tỉnh Chiết Giang, Tưởng là thành viên của Quốc dân đảng và là trung úy dưới trướng Tôn Trung Sơn trong cuộc cách mạng lật đổ chính phủ Bắc Dương và thống nhất Trung Quốc. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tưởng đã tổ chức quân đội cho Chính phủ Quốc dân Đảng của Tôn và đứng đầu Trường Quân sự Hoàng Phố. Với chức Quốc dân Cách mệnh quân (từ đó ông được gọi là Tổng thống lĩnh), ông đã lãnh đạo cuộc Bắc phạt từ năm 1926 đến năm 1928, trước khi đánh bại liên minh các lãnh chúa và thống nhất Trung Quốc trên danh nghĩa dưới một chính phủ mới. Giữa cuộc Bắc phạt, liên minh Quốc-Cộng tan rã và Tưởng thanh trừng những người cộng sản trong đảng, gây ra cuộc nội chiến với Đảng Cộng sản, mà cuối cùng ông đã thua vào năm 1949.
Với tư cách là nhà lãnh đạo của Trung Hoa Dân Quốc trong thập niên Nam Kinh, Tưởng đã tìm cách đạt được sự cân bằng giữa việc hiện đại hóa Trung Quốc đồng thời dành nguồn lực để chống lại Đảng Cộng sản, các lãnh chúa và mối đe dọa sắp đến từ Nhật Bản. Cố gắng tránh một cuộc chiến tranh với Nhật Bản trong khi tiếp tục cuộc chiến với Đảng Cộng sản, ông bị bắt cóc trong Sự biến Tây An và thành lập Mặt trận thống nhất chống Nhật Bản với Đảng Cộng sản. Sau sự kiện Lư Câu Kiều năm 1937, ông đã vận động Trung Quốc tham gia Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Trong tám năm, ông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại một kẻ thù hùng mạnh, hầu hết đến từ thủ đô thời chiến Trùng Khánh. Với tư cách là nhà lãnh đạo của một cường quốc lớn trong khối Đồng Minh, Tưởng đã gặp Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt tại Hội nghị Cairo để thảo luận về các điều khoản buộc Nhật Bản đầu hàng. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc sớm hơn cuộc Nội chiến đối đầu với những người cộng sản, do Mao Trạch Đông lãnh đạo, lại tiếp tục. Những người theo chủ nghĩa dân tộc của Tưởng hầu hết đã bị đánh bại trong một số trận chiến quyết định vào năm 1948.
Năm 1949, chính phủ và quân đội của Tưởng rút về Đài Loan, nơi Tưởng ra lệnh thiết quân luật và đàn áp những người chống đối trong cuộc Khủng bố Trắng. Lãnh đạo đất nước trong một thời kỳ cải cách xã hội và kinh tế thịnh vượng, Tưởng đã giành chiến thắng năm cuộc bầu cử với nhiệm kỳ sáu năm làm Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc và là Chủ tịch của Quốc dân đảng cho đến khi ông qua đời năm 1975, ba năm sau nhiệm kỳ Tổng thống thứ năm và chỉ một năm trước khi Mao qua đời, sau đó thì chính con trai ông đã kế vị.
Là một trong những nguyên thủ quốc gia không thuộc hoàng tộc tại vị lâu nhất trong thế kỷ 20, Tưởng là người cai trị không thuộc hoàng tộc tại Trung Quốc với thời gian 46 năm. Giống như Mao, ông được coi là một nhân vật gây tranh cãi. Những người ủng hộ Tưởng ghi nhận ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thống nhất đất nước, phát triển kinh tế, thu hồi các tô giới, nâng cao vị thế của Trung Quốc và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc, cũng như xây dựng Đài Loan. Sau thế chiến thứ II, Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tưởng được xem là một trong năm nước mạnh nhất là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mà sau này chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kế thừa vị trí đó. Những người gièm pha và chỉ trích Tưởng tố cáo ông là một nhà độc tài cai trị một chế độ chuyên chế thối nát đã đàn áp những người chống đối.