Enisei
From Wikipedia, the free encyclopedia
Sông Yenisei (tiếng Nga: Енисе́й, Yeniséy; tiếng Mông Cổ: Енисей мөрөн, Yenisei mörön; tiếng Buryat: Горлог мүрэн, Gorlog müren; tiếng Tuva: Улуг-Хем, Uluğ-Hem; tiếng Khakas: Ким суғ, Kim suğ) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc Băng Dương, với chiều dài 3487 km thì nó là con sông dài thứ 5 trên thế giới. Hệ thống sông này có diện tích lưu vực và chiều dài nhỏ hơn của hệ thống Mississippi-Missouri tại Hoa Kỳ nhưng lưu lượng nước trung bình thì cao hơn gấp 1,5 lần. Bắt nguồn từ Mông Cổ, nó chảy theo hướng bắc để đổ ra biển Kara, tưới tiêu cho một phần rộng lớn của Trung Siberia, dòng chảy dài nhất là Enisei-Angara-Selenga-Ider.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Sông Yenisei | |
---|---|
Bii-Khem và Kaa-Khem gần Kyzyl | |
Lưu vực sông Yenisei, bao gồm Hồ Baikal | |
Từ nguyên | từ hoặc là tiếng Kyrgyz cổ Эне-Сай (Ene-Sai, "dòng sông mẹ") hoặc là tiếng Evenk Ионэсси (Ionəssi, "nước lớn")[1][2] |
Tên địa phương | Енисей (tiếng Nga) |
Vị trí | |
Quốc gia | Mông Cổ, Nga |
Vùng | Tuva, Krasnoyarsk Krai, Khakassia, Irkutsk Oblast, Buryatia, Zabaykalsky Krai |
Thành phố | Kyzyl, Shagonar, Sayanogorsk, Abakan, Divnogorsk, Krasnoyarsk, Yeniseysk, Lesosibirsk, Igarka, Dudinka |
Đặc điểm địa lý | |
Thượng nguồn | Mungaragiyn-Gol |
• vị trí | ridge Dod-Taygasyn-Noroo, Mông Cổ |
• tọa độ | 50°43′46″B 98°39′49″Đ |
• cao độ | 3.351 m (10.994 ft) |
Thượng nguồn thứ 2 | Thượng nguồn xa nhất: hệ thống Yenisey-Angara-Selenga-Ider |
• vị trí | Dãy núi Khangai |
• tọa độ | 47°54′47″B 97°57′1″Đ |
• cao độ | 2.850 m (9.350 ft) |
Cửa sông | Vịnh Yenisei |
• vị trí | Bắc Băng Dương, Nga |
• tọa độ | 71°50′0″B 82°40′0″Đ |
Độ dài | 3.487 km (2.167 mi) |
Diện tích lưu vực | 2.554.482 km2 (986.291 dặm vuông Anh) |
Lưu lượng | |
• vị trí | Igarka[3] |
• trung bình | 18,050 m3/s (637,4 cu ft/s) |
• tối thiểu | 3,120 m3/s (110,2 cu ft/s) |
• tối đa | 112,000 m3/s (3.955,2 cu ft/s) |
Lưu lượng | |
• vị trí | cửa sông |
• trung bình | 19,300 m3/s (681,6 cu ft/s)
Multiannual discharge 1940-2017: 588 km3/a (18.600 m3/s)[4] |
Đặc trưng lưu vực | |
Phụ lưu | |
• hữu ngạn | Angara, Podkamennaya Tunguska, Nizhnyaya Tunguska |
Ở thượng nguồn, với nhiều thác ghềnh, sông này chảy qua những vùng dân cư thưa thớt. Ở trung lưu, hệ thống sông này bị kiểm soát bằng một loạt đập thủy điện lớn của Nga. Chảy theo những cánh rừng taiga dân cư thưa thớt, sông Enisei tiếp nhận nước từ một loạt các sông nhánh và cuối cùng đổ ra biển Kara trong một vùng đài nguyên hoang vu, bị đóng băng trong khoảng trên 6 tháng mỗi năm.
Trong thời kỳ băng hà, hành trình tới Bắc cực bị băng ngăn chặn lại. Mặc dù các chi tiết chính xác là chưa rõ ràng, nhưng một số học giả cho rằng khi đó sông Enisei cũng như sông Obi đã chảy vào một hồ lớn chiếm phần lớn phần miền tây Siberi, và cuối cùng đổ ra biển Đen.[5][6] (Xem bài Hồ sông băng Tây Siberi trong giai đoạn đầu của sự đóng băng Weichsel)